Những câu chuyện xúc động bước ra từ kỷ vật chiến tranh
“Những mảng màu loang lổ trên áo là vệt máu của một người lính từng chỉ huy hơn 80 trận đánh…” – đó chỉ là 1 trong hơn 200 câu chuyện từ những kỷ vật chiến tranh được trưng bày tại triễn lãm “Kỷ vật chiến tranh qua hai cuộc Kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp”.
Nhân dịp kỷ niệm 70 năm ngày thành lập Quân đội Nhân dân Việt Nam (22/12/1944-22/12/2014), Bảo tàng Hà Tĩnh phối hợp với Bộ chỉ huy Quan sự và Hội cựu chiến binh Hà Tĩnh tổ chức triển lãm trưng bày với “Chuyên đề Kỷ vật chiến tranh qua hai cuộc Kháng chiến chống Mỹ và chống Pháp”. Triển lãm diễn ra từ ngày 10/12 đến 15/12/2014.
Trong 200 hiện vật được trưng bày, nhiều hiện vật được gắn kết với nhau thành câu chuyện vô cùng cảm động.
Chuyện ở tiền tuyến
Nhìn những chiếc lược, cây dao nhỏ, điếu thuốc, gạt tàn thuốc lá, dao cạo râu, dụng cụ xâu dép… chẳng ai nghĩ tất cả những vật dụng này đều được làm từ những thứ vũ khí giết người của quân địch.
Những đồ vật được tận dụng từ vũ khí của giặc
Chỉ vào chiếc album được bằng mảnh vỏ thiếc, anh Võ Trung Đức – hướng dẫn viên tại triển lãm cho biết: “Đúng ngày 19/5/1972, khi máy bay Mỹ đang oanh tặc tại bầu trời Hà Tĩnh, trận địa phòng không chúng ta sẵn sàng lập công chào mừng ngày sinh Bác Hồ. Trung đoàn 223 đã lập thành tích bắn rơi 2 chiếc may bay A7B tại khu vực cầu Cày (huyện Thạch Hà) và địa phận xã Thạch Quý (Tp Hà Tĩnh). Để kỷ niệm chiến thắng này, trung đoàn đã làm 1 chiếc album tặng cho tỉnh ủy và nhân dân Hà Tĩnh nhân dịp đầu xuân 1973″.
Hộp album…
dụng cụ xâu dép…
lược.. đều được làm từ vỏ máy bay, mảnh pháo
Đối diện với cuốn album, một phần mảnh vỡ của máy bay cũng được trung bày tại đây như một minh chứng cho chiến công oanh liệt của quân và nhân dân ta.
Mảnh vỡ của máy bay A7B
Điếu cày làm từ vỏ đạn
Những vật dụng này cũng phản ảnh một phần đời sống rất khó khăn của những người lính Việt Nam trong chiến trường. Thiếu thốn đủ bề nhưng họ cũng là người thợ vô cùng sáng tạo, tài hoa, biến những phế phẩm thành những đồ vật tiện dụng hàng ngày.
Tem phiếu được sử dụng trên tuyến đường Trường Sơn như một loại tiền để trao đổi. Tem phiếu này được in năm 1962, được in một mặt và chỉ sử dụng trên tuyến đường đặc biệt này. Đến năm 1964, do tính chất bí mật của con đường này loại tem phiếu này chuyển từ in có chữ sang chỉ in số trên một mặt.
Trong hàng trăm kỷ vật tại đây, có những kỷ vật “vật còn người còn” nhưng có những kỷ vật thay các anh kể lại câu chuyện cuộc đời mình.
Chiếc áo của anh hùng LLVT Phan Như Cẩn (huyện Can Lộc, Hà Tĩnh) được bạn bè gửi lại cho gia đình sau khi ông hy sinh. Ông là người lái máy bay đầu tiên của Đoàn bay 919, tham gia chiến đấu từ những năm 1950 tại chiến trường Lào. Năm 1968, ông hy sinh trên đường trở về sau khi hoàn thành nhiệm vụ tại nước bạn.
Chiếc áo của anh hùng LLVT Phan Như Cẩn
Chiếc khăn mùi soa của anh hùng Phan Đình Giót
Chiếc áo bà ba của đồng chí Cao Viết Danh – người chỉ huy 81 trận đánh từ năm 1945 đến 1965, trên áo còn nhiều vệt máu thẫm
Hay là câu chuyện từ một lá thư thiêng của chàng thanh niên trẻ Nguyễn Quang Trí (trú quán tại Thị trấn Đức Thọ) gửi gia đình 10 ngày trước lúc anh hy sinh.
Video đang HOT
Những trang giấy đã hoen ố ấy là những dòng tâm sự đẫm nước mắt nhưng rất bi tráng. Trong thư, anh viết: …”Con đã cứng rắn chống chọi với quân thù nhưng con chưa trả công nuôi nấng của cậu mẹ (bố mẹ – PV) được thì phải xa cậu mẹ các em lên đường làm công tác lịch sử nhất của dân tộc Việt Nam và cũng là vinh dự nhất của lứa tuổi thanh xuân của chúng con. Dù có đổ máu hoặc phải hy sinh đi chăng nữa vẫn cam lòng để nhân dân ta được sống tự do, độc lập chứ không để làm nô lệ cho giặc Mỹ”…
Thư của liệt sĩ Nguyễn Quang Trí gửi gia đình 10 ngày trước khi hy sinh
Mùa thu năm 1968, tại chiến trường Cam Lộ (tỉnh Quảng Trị) chàng thanh niên Nguyễn Quang Trí đã mãi mãi ra đi. Gần 50 năm kể từ ngày anh hy sinh, gia đình vẫn chưa tìm được hài cốt của ảnh để đưa về đất mẹ.
Tâm thư của liệt sỹ Nguyễn Quang Trí cũng là lý tưởng của hàng triệu thế hệ thanh niên thời ấy. Trong hàng ngàn bức quyết tâm thư, có cả những bức được các anh, các chị viết bằng chính dòng máu đỏ của mình.
Quyết tâm thư bằng máu
Chen lẫn trong những bức thư từ chiến trường, có những bức thư có mối lương duyên kỳ lạ. 2 bức thư được đặt cạnh nhau tại triển lãm cùng viết gửi một người con gái tên Thư. Bức thư thứ nhất là của nhà thơ Phạm Tiến Duật viết gửi Thư nhân dịp đầu Xuân. Trong bức thư nhà thơ động viên cô Thư và cầu chúc cho cô và người bạn mình sẽ sớm nên duyên vợ chồng. Bức thư thứ 2 là của người lính Lê Đình Hy (xã Thạch Mỹ, huyện Thạch Hà) – bạn của nhà thơ Phạm Tiến Duật gửi cho cô Thư khi hai người đã nên duyên vợ chồng.
Bức thư của nhà thơ Phạm Tiến Duật và ông Lê Đình Hy ( bức thứ 1 và thứ 2 hàng dưới từ phải qua)
Như vậy niềm mong mỏi và lời chúc của nhà thơ Phạm Tiến Duật đã thành sự thật chỉ sau đó ít năm.
Chuyện hậu phương
Đặc biệt, những hình ảnh, hiện vật, tài liệu… còn tái hiện sinh động đời sống hậu phương của nhân dân Hà Tĩnh. Vừa tham gia sản xuất, nhân dân Hà Tĩnh còn tham gia chiến đấu lập được nhiều thành tích cao.
Một trong số đó phải kể đến tiểu đội nữ dân quân Kỳ Phương (huyện Kỳ Anh) với thành tích “bắn chẻ đầu” máy bay Mỹ.
Tiểu đội 9 nữ dân quân Kỳ Phương (huyện Kỳ Anh)
Năm 1967, chín cô gái xã Kỳ Phương (Kỳ Anh) được trang bị ba khẩu súng thượng liên trực chiến đấu bắn máy bay Mỹ. Qua thực tế chiến đấu, các cô thực hiện tác chiến với phương châm “phải bắn chẻ đầu máy bay Mỹ”, chờ cho địch nhào xuống thấp nhất, gần nhất, nhằm thật trúng để những viên đạn bắn lên găm thẳng vào máy bay Mỹ. Bằng cách đánh ấy, trong 27 ngày (từ ngày 26-7 đến ngày 21- 8) tiểu đội đã độc lập bắn rơi ba máy bay Mỹ và phối hợp với các đơn vị bạn bắn rơi bốn chiếc khác.
Huy hiệu đích thân Bác Hồ trao tặng cho 9 cô gái vì những thành tích anh hùng
Kỷ vật Đại tướng Võ Nguyên Giáp tặng cho chị Tưởng Thị Diên
Năm 1968, trong một lần về thăm Hà Tĩnh, Đại tướng Võ Nguyên Giáp nghe chuyện về tiểu đội đã tặng đội trưởng Tưởng Thị Diên chiếc bi đông đựng nước làm kỷ niệm. Chị Diên cũng là người vinh dự được thay mặt tiểu đội đi gặp Bác Hồ tại Phủ Chủ tịch và được Người gửi tặng mỗi cô một huy hiệu Chiến sĩ giải phóng.
Chiến lợi phẩm quân và dân ta thu được từ bắn hạ máy bay địch
1 chiếc ghế giặc lái từ chiếc máy bay F4 bị quân và dân ta bắn rơi vào ngày 20/3/1966
Năm 1971, tiểu đội chín cô gái Kỳ Phương đã được tặng danh hiệu “Anh hùng lực lượng vũ trang nhân dân”.
Mảnh vỡ máy bay tại trận địa núi Nài vào ngày 26/3/1965
Thang máy bay F4
Cũng từ những vật dụng thô sơ, quân và dân ta cũng đã biến chúng thành những vũ khí chống lại thứ vũ khí hiện đại của 2 đế quốc hùng mạnh như bàn chông, chông, mìn nón, giáo, mác…
Mìn nón…
bàn chông… từ những vũ khí thô sơ góp phần làm nên chiến thắng của quân và dân ta trong 2 cuộc kháng chiến
Tại triển lãm còn lưu giữ thiết bị dùng phá bom của anh hùng Vương Đình Nhỏ. Chỉ với 1 cây tre, 1 đoạn dây, anh đã sáng tạo ra cách phá bom “làm cho nó câm, không cho nó nổ.
Đèn của Ty Giao thông vận tải sáng chế đặt ở ngã ba Bãi Vọt (thị xã Hồng Lĩnh) để làm đèn chỉ đường ban đêm trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ
Bằng cách tính toán sử dụng một lượng thuốc nổ vừa phải và đặt ở một hướng hợp lý để tách đầu nổ ra khỏi quả bom, hoặc dùng lượng bộc phá đủ để hất quả bom ra xa đường hoặc cho nó nổ trên không, không cho nổ dưới đất phá hỏng đường. Trong những ngày địch đánh ác liệt ở Ngã ba Đồng Lộc, anh đã cùng đồng đội phá hơn 500 quả bom nổ chậm, riêng anh phá 150 quả, xứng đáng danh hiệu “Dũng sĩ phá bom nổ chậm”. Nhờ những chiến công của anh đã góp phần chắt đứt âm mưu của đế quốc Mỹ hòng cắt con đường chi viện ra tiền tuyến.
Dụng cụ phá mìn của anh hùng Vương Đình Nhỏ
Hay cuốn số nhật ký của người dân có tên Trần Bá Túc (xã Thạch Bằng, huyện Lộc Hà). Năm 1964, đế quốc Mỹ sử dụng nhiều chiêu bài chiến tranh tại Việt Nam trong đó có chiêu trò “Tâm lý chiến” bằng cách thả những cuốn sổ có nội dung kếu gọi người dân buông súng, ca ngợi đế quốc Mỹ. Thế nhưng chính từ những trang giấy của bọn chúng, ông Túc đã ghi những tội ác hàng ngày của Mỹ trên quê hương ông như: bao nhiêu người thương vong; số gia súc, gia cầm bị chết; số công trình sinh hoạt bị phá hoại…
Sổ nhật ký của ông Trần Bá Túc
Chiếc gậy của mẹ Bảo (xã Đức Phong, huyện Đức Thọ). Từ những năm 1934, khi còn đang độ tuổi thanh xuân mẹ đã gia nhập vào hàng ngũ QĐND Việt Nam. Khi tuổi đã cao, hàng ngày mẹ Bảo vẫn thường xuyên chống gậy ra thăm các anh em bộ đội đóng quân tại địa phương trong kháng chiến chống Mỹ.
Chiếc xe thồ của ông Phan Xanh (xã Đức Thủy, huyện Đức Thọ) dùng thồ hàng phục vụ tiền tuyến những năm 1965-1975 từ cầu Linh Cảm đến xã Song Lộc
Vào những năm 1968, khi tuyến đường giao thông huyết mạch quốc lộ 1A bị chia cắt bởi sự ném bom ác liệt của Mỹ, 130 hộ dân đã tự nguyện dỡ nhà lấy gỗ lát đường cho xe vận tải qua… Một trong những kỷ vật được trung bày tại triển lãm là xà nhà bằng gỗ của ông Phạm Tiến Đông được tháo dỡ trong đêm 18/3/1968. Chính xà nhà là vật chứng lịch sử cho tinh thần “xe chưa qua, nhà không tiếc” của nhân dân Hà Tĩnh trong kháng chiến chống Mỹ.
Xà nhà ông Phạm Tiến Đông
Đèn phòng không của bác Trần Văn Đông (làng K130, xã Tiến Lộc, huyện Can Lộc) dùng để soi đường cho xe bộ đội qua đường QL 1A đoạn qua địa phận xã Tiến Lộc.
Hơn 200 hiện vật, mỗi hiện vật là một câu chuyện tái hiện sinh động bức tranh về đời sống của quan và dân ta qua hai cuộc chiến. Chiến tranh đã đi qua, hàng ngàn người con Hà Tĩnh đã ngã xuống, có người trở về tiếp tục xây dựng quê hương ngày càng giàu đẹp. Nhưng câu chuyện về họ mãi là khúc tráng ca còn vang mãi…
Phượng Vũ
Theo Dantri
Kháng chiến chống Thực dân Pháp: "châu chấu đá voi lòi ruột"
Thua kém về trang bị nhiều mặt nhưng với sự lãnh đạo sáng suốt của Đảng và Bác Hồ, quân dân ta đã giành chiến thắng oanh liệt trước Thực dân Pháp.
Sau 16 tháng từ ngày tuyên bố độc lập, trong lúc chính quyền chưa được củng cố vững mạnh, xã hội chưa thật ổn định thì dân tộc ta đã phải đương đầu với chiến tranh. Núp bóng quân Anh, thực dân Pháp trắng trợn gây hấn ở Nam Bộ, Hải Phòng. Vào lúc 20 giờ ngày 19/12/1946, cuộc kháng chiến toàn quốc chống thực dân Pháp bùng nổ.
Đến cuối nm 1946, thực dân Pháp đã đưa vào Việt Nam nhiều đội quân nhà nghề, có kinh nghiệm chiến tranh xâm lược, trình độ tác chiến vượt trội và trang bị, vũ khí tối tân, hiện đại. Trong khi đó, chúng ta chỉ có khoảng 8 vạn người với trang bị phần lớn là dáo mác, súng trường, súng kíp. Tuy quân số phát triển nhanh, nhưng chưa được huấn luyện kỹ, cán bộ chưa được đào tạo, huấn luyện nhiều. Trước vấn đề này, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã cho rằng, ta đánh Pháp là "châu chấu đá voi".
Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh".
Với phương châm: "kháng chiến toàn dân, toàn diện, lâu dài và dựa vào sức mình là chính"; "vừa đánh vừa vũ trang thêm, vừa đánh vừa đào tạo thêm cán bộ" phải "bảo toàn thực lực, kháng chiến lâu dài", "Kháng chiến nhất định thắng lợi"; Đảng ta đã lãnh đạo quân và dân ta đánh bại quân đội Pháp và sự can thiệp của Mỹ.
Mở đầu cuộc kháng chiến là cuộc tấn công đồng loạt vào quân địch trong các thành phố và thị xã. Tại thủ đô Hà Nội cuộc chiến đấu quyết liệt diễn ra ở từng thành phố, thị xã. Ta và địch giành giật nhau từng góc phố, từng cn nhà. Địch chiếm giữ các thành phố, thị xã, ta chủ động rút và đứng vững ở nông thôn, xây dựng thế trận chiến tranh nhân dân vững chắc.
Tháng 10/1947, địch mở đợt tấn công lên Việt Bắc, nhằm tiêu diệt bộ đội chủ lực và cơ quan đầu não kháng chiến của ta, hòng kết thúc chiến tranh. Với phương châm "tốc chiến, tốc thắng", địch huy động khoảng 20.000 quân viễn chinh Pháp, 40 máy bay và phần lớn lực lượng thuỷ quân và cơ giới tham gia chiến dịch.
Một đơn vị quân đội của ta trong kháng chiến chống Thực dân Pháp.
Triệt để lợi dụng yếu tố địa hình thuận lợi, bộ đội chủ lực phối lực với dân quan tự vệ đã chiến đấu dũng cảm, giữ vững quyền chủ động trong từng tình huống, từng trận đánh. Nhiều trận ta đánh cho địch không kịp viện binh, không kịp rút chạy. Sau hơn 200 trận đánh, chiến dịch Việt Bắc đã kết thúc thắng lợi, ta phá tan kế hoạch "đánh nhanh, thắng nhanh" của địch. Việt Bắc trở thành mồ chôn giặc Pháp. Địch chuyển trọng điểm đánh chiếm Bắc Bộ quay về "bình định" Nam Bộ, từ tập trung tiêu diệt chủ lực của ta sang đánh phá cơ sở quần chúng và kinh tế của ta. Địch tng cường "bình định" vùng chiếm đóng, ráo riết xây dựng nguy quân, nguy quyền, thực hiện chính sách "lấy chiến tranh nuôi chiến tranh, dùng người Việt đánh người Việt".
Để phá kế hoạch thâm độc của địch, ta chủ trương đẩy mạnh chiến tranh du kích, xây dựng, phát triển thế trận chiến tranh nhân dân. Bộ đội chủ lực được phân tán thành các đại đội độc lập và các tiểu đoàn tập trung, phát động trong quân đội phong trào luyện quân lập công. Trong nm 1948, quân ta đã diệt hàng trm đôn bốt địch bằng nhiều hình thức tập kích bất ngờ, nội ứng, bức rút và mở một số chiến dịch, tiêu diệt một bộ phận quan trọng sinh lực địch, giải phóng nhiều vùng đất đai. Cùng với sự trưởng thành của bộ đội chủ lực, dân quân du kích được phát triển. Ta chú ý xây dựng các cn cứ và khu du kích, đẩy mạnh chiến tranh du kích, hỗ trợ cho nhân dân đứng dậy phá tề diệt ác, xây dựng chính quyền cơ sở. Vào thời điểm này, lực lượng của ta đã lớn mạnh, hàng loạt các đại đoàn chủ lực như 308, 316, 312 được thành lập.
Bác Hồ và các chiến sĩ quân báo trên đài quan sát trong Chiến dịch Biên giới 1950.
Tháng 9/1950, ta chủ động mở chiến dịch Biên giới và giành thắng lợi, làm thay đổi cục diện chiến tranh. Chiến thắng này của ta đã phá thế bị bao vây, giành lại thế chủ động trên chiến trường, từ phương thức tác chiến chủ yếu là du kích chiến đã chuyển sang vận động chiến "công đồn diệt viện", từ đánh nhỏ tiến lên đánh vừa và đánh lớn giành thắng lợi lớn, mở ra một giai đoạn mới của cuộc kháng chiến. Từ tháng 12/1950 đến tháng 6/1951 ta liên tiếp mở ba chiến dịch đánh địch ở trung du và đồng bằng Bắc Bộ. Ba chiến dịch này tuy có giành được những thắng lợi mới, nhưng không thực hiện được ý đồ chiến lược, ta không làm chủ chiến trường Bắc Bộ.
Sau thất bại ở Biên giới, được sự viện trợ của Mỹ, Pháp vạch kế hoạch mới mang tên Đơ-lát Đờtátxi-nhi để đối phó với ta nhằm giành lại quyền chủ động chiến lược. Địch tập trung lực lượng cơ động chiến lược lớn mở chiến dịch Lô-tuýt đánh chiếm Hoà Bình, nhằm tiêu diệt lực lượng ta, dựng lại hành lang Đông - Tây, chặn đường tiếp tế của ta từ Việt Bắc đi các chiến trường và tái lập xứ Mường tự trị. Thấy rõ ý đồ của địch, Trung ương Đảng ra chỉ thị nhằm phá tan cuộc hành quân này. Sau ba đợt chiến đấu từ ngày 25/11/1951 đến ngày 23/2/1952, chiến dịch Hoà Bình kết thúc thắng lợi đã tạo ra các vùng giải phóng liên hoàn ở đồng bằng và trung du Bắc Bộ, làm phá sản ý đồ của giành lại thế chủ động trên chiến trường của địch.
Bác Hồ, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đang bàn thảo kế hoạch tác chiến cùng các cán bộ chỉ huy đơn vị vũ trang.
Tiếp tục được sự viện trợ tối đa của Mỹ, thực dân Pháp vạch kế hoạch Na-va khá tỉ mỉ, với quy mô rộng lớn nhằm chống phá cách mạng Việt Nam và Đông Dương, tiến tới "giành thắng lợi quyết định trong vòng 18 tháng để kết thúc chiến tranh". Tháng 9/1953, Bộ chính trị thông qua kế hoạch tác chiến Đông Xuân 1953-1954. Ta chủ trương tập trung lực lượng tiến công vào các hướng chiến lược nơi địch yếu, đẩy mạnh chiến tranh du kích, bảo vệ vùng tự do. Hướng tiến công chính là Tây Bắc và Thượng Lào. Ngày 6/12/1953, Bộ chính trị quyết định chọn Điện Biên Phủ là điểm quyết chiến chiến lược giữa ta và địch, quyết định tiêu diệt cn cứ phòng ngự kiên cố của địch. Lúc này, nhân dân ta đã sản xuất được hàng triệu vũ khí thô sơ. Du kích và bộ đội địa phương đã thu được 38.694 súng trường, 9.099 súng liên thanh các cỡ, 259 súng cối, 40 khẩu đại bác và 477 máy vô tuyến để tự trang bị.
Ngày 20/11/1953, Pháp bắt đầu nhảy dù xuống Điện Biên Phủ, và xây dựng nơi đây thành pháo đài bất khả xâm phạm. Tại đây, Pháp có 16.000 quân tinh nhuệ, được trang bị vũ khí tối tân và có 2 sân bay là Mường Thanh, Hồng Cúm. Chúng bố trí phòng ngự thành 3 phân khu. Phân khu Bắc gồm Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo. Phân khu trung tâm gồm các cao điểm phía Đông, sân bay Mường Thanh, và các cứ điểm phía tây Mường Thanh. Phân khu Nam gồm cụm cứ điểm và sân bay Hồng Cúm.
Kéo pháo vào trận địa trong chiến dịch Điện Biên Phủ.
Quân đội Việt Nam tham gia chiến dịch tuy nhiều hơn quân Pháp, song về hỏa lực và phương tiện chiến tranh thì quân Pháp có ưu thế. Mặt khác, Pháp được bảo vệ trong hệ thống công sự trận địa vững chắc. Nếu không có phương án tác chiến đúng đắn thì khó có thể thắng địch.
Ngày 14/1/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã đưa ra phương án "đánh nhanh, giải quyết nhanh", tiêu diệt Điện Biên Phủ trong 3 ngày đêm bằng những đợt tiến công ồ ạt. Song một đơn vị đại bác vào trận địa chậm, kế hoạch bị lộ nên lịch tấn công dời đến ngày 26/1. Ngày đêm 25/1, Đại tướng Võ Nguyên Giáp đã suy nghĩ và đưa ra "quyết định khó khăn nhất trong đời cầm quân", chuyển từ "đánh nhanh, giải quyết nhanh", sang "đánh chắc, tiến chắc", đánh dài ngày theo kiểu bóc vỏ từng cứ điểm đối phương.
Để đánh Điện Biên Phủ, ta đã huy động 260.000 dân công, hơn 20 nghìn chiếc xe đạp thồ tham gia vận chuyển hàng hóa, vũ khí. Quân đội Việt Minh cũng xây dựng được hệ thống giao thông hào chằng chịt hơn 400km, và ngày càng khép chặt vòng vây quân Pháp. 17h30 ngày 13/3/1954, Đại tướng Võ Nguyên Giáp ra lệnh nổ súng, bắt đầu đợt 1 chiến dịch. Sau 5 ngày chiến đấu ta đã làm chủ Him Lam, Độc Lập, Bản Kéo.
Đợt 2 của chiến dịch bắt đầu từ ngày 30/3 đến 30/4, ta tiến công vào tập đoàn cứ điểm phía Đông, gồm các ngọn đồi C1, E, D, A1. Quân ta đã dùng chiến thuật đào hào bao vây, siết chặt quân địch. Sau một tháng chiến đấu, ta làm chủ nhiều cứ điểm khiến quân Pháp ngày càng thất thế trên chiến trường Điện Biên Phủ, phải chờ tiếp viện của Mỹ.
Ngày 1/5, quân ta mở đợt tấn công lần 3, đánh chiếm các cứ điểm còn lại. Đêm 6/5, quân đội Việt Nam phải dùng thuốc nổ bí mật phá sập hệ thống hầm ngầm, chiếm được quả đồi.
17h30 ngày 7/5/1954, lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" của Quân đội nhân dân Việt Nam tung bay trên nóc hầm tướng De Castries, kết thúc thắng lợi Chiến dịch Điện Biên Phủ.
Lá cờ "Quyết chiến quyết thắng" tung bay trên nóc hầm tướng chỉ huy quân Pháp ở Điện Biên Phủ.
Ngày 8/5/1954, Pháp buộc phải ngồi vào vòng đàm phán tại Geneva để bàn về vấn đề Đông Dương. Sau hội nghị này, Pháp công nhận quyền tự do, thống nhất, chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các nước Đông Dương, trong đó có Việt Nam.
Cuộc kháng chiến trường kỳ chống thực dân pháp xâm lược và can thiệp Mỹ của nhân dân ta đã kết thúc thắng lợi. Trong gần 9 năm theo đuổi chiến tranh xâm lược Đông Dương, hơn 50 vạn lính Pháp và tay sai bị tiêu diệt, bị thương và bị bắt. Pháp đã tiêu tốn gần 3.000 tỷ frăng cho cuộc chiến này.
Cuộc kháng chiến chống pháp thắng lợi ta đã buộc pháp phải công nhận độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ của nhân dân 3 nước Đông Dương, làm thất bại âm mưu quốc tế hoá chiến tranh của đế quốc Mỹ, chấm dứt ách thống trị thực dân kiểu cũ của pháp gần 1 thế kỷ trên đất nước ta.
Với thắng lợi của cuộc kháng chiến chống pháp ta đã bảo vệ và phát triển thành quả của Cách mạng tháng Tám, giải phóng miền Bắc, hoàn thành cơ bản cuộc cách mạng dân tộc, dân chủ, nhân dân, mở ra thời kỳ mới xây dựng CNXH và miền Bắc trở thành căn cứ địa cách mạng của cả nước, là hậu phương vững chắc cho cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước; tạo điều kiện để giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước sau này.
Đúng như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nhận định, cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp thắng lợi là kết quả của "Châu chấu đá voi lòi ruột". Bởi thắng lợi ấy của nhân dân ta đã giáng 1 đòn mạnh mẽ và chí mạng vào hệ thống thực dân, góp phần làm sụp đổ chủ nghĩa thực dân cũ, là nguồn cổ vũ mạnh mẽ phong trào giải phóng dân tộc trên thế giới, trước hết là các nước A, Phi. Thắng lợi ấy đã chứng minh chân lý của thời đại: Trong điều kiện ngày nay, một dân tộc đất không rộng, người không đông nếu quyết tâm chiến đấu vì độc lập tự do, có đường lối chính trị, quân sự đúng đắn, được sự ủng hộ của quốc tế thì dân tộc đó hoàn toàn thắng lợi.
Đại Dương
Theo_Kiến Thức
Ngày tiếp quản Thủ đô trong ký ức người cận vệ Những người Thanh Hóa có mặt ở Hà Nội vào thời khắc tiếp quản, giải phóng Thủ đô ngày 10/10/1954, đến nay chỉ còn mấy người. Trong ký ức khó phai mờ, vui mừng trào nước mắt, những người còn sống hôm nay luôn xem đó là kỷ niệm sâu sắc, không thể nào quên. Ông Nguyễn Đình Sơn (người cầm cuốn sổ)...