Nhóm đối thoại giáo dục đưa ra hướng cải cách giáo dục đại học ở Việt Nam
Nhóm Đối thoại giáo dục Việt Nam (VED) do GS Ngô Bảo Châu chủ trì vừa có bản tổng kết nghiên cứu khoa học và ước vọng về một nền đại học Việt Nam lành mạnh và tiến bộ. Bản tổng kết này đã gửi tới lãnh đạo có thẩm quyền.
Quan điểm chung của nhóm Đối thoại giáo dục là: Hệ thống giáo dục đại học Việt Nam cần được cải cách cơ bản và sâu sắc ngay từ nguyên lý và quy tắc tổ chức; không thể chỉ thay đổi một vài chi tiết. Cải cách cơ bản và sâu sắc là một quá trình lâu dài và liên tục, không phải là một đơn thuốc có tính công phạt. Mô hình dài hạn cần hướng tới là mô hình của các nước đã phát triển, nhưng cũng cần lưu ý tới những đặc thù của đại học Việt nam để xây dựng một lộ trình cải cách hiệu quả.
Bên cạnh đó, tự chủ đại học là một động lực rất lớn của quá trình cải cách. Vấn đề cần suy nghĩ là hình thành khung pháp lý, thiết kế qui tắc quản lý nhà nước và quản trị nội bộ, những thành tố làm nên nội dung của khái niệm “tự chủ đại học”.
Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng thân mật tiếp Giáo sư Ngô Bảo Châu và Nhóm đối thoại giáo dục năm 2014
Nhóm đối thoại đã đưa ra 5 đề mục cải cách đại học Việt Nam, cụ thể:
Giao đại học về địa phương có khả năng tự chủ ngân sách.
Phân tích về mô hình này tại Việt Nam, nhóm đối thoại giáo dục cho rằng, các trường đại học công lập thuộc sở hữu toàn dân, được nhà nước đại diện làm chủ sở hữu. Cần phân biệt trách nhiệm điều tiết ở tầm quốc gia với trách nhiệm làm “chủ” từng trường đại học. Định chế được uỷ thác trách nhiệm làm chủ một đại học phải hoạt động toàn tâm toàn ý vì sự phát triển, vì lợi ích riêng của trường mình, trong khi Bộ giáo dục và đào tạo có trách nhiệm điều tiết để đảm bảo sự phát triển chung. Theo một nghĩa nào đó, hơn 330 trường đại học và cao đẳng công lập ở Việt nam chưa có “chủ” thực sự.
Hiện tại, một số đại học Việt nam đã có hội đồng trường, nhưng số lượng ít và những hội đồng đang tồn tại chủ yếu chỉ có chức năng tham vấn. Trên thực tế, ít người biết đến sự tồn tại của các hội đồng trường.
Nhóm đối thoại cho rằng thay cho các hội đồng trường có vai trò tham vấn, các trường đại học cần có hội đồng uỷ thác (hay còn gọi hội đồng tín thác – board of trustees) với quyền lực tương tự như hội đồng quản trị của các doanh nghiệp. Địa phương và các bộ ngành liên quan thực hiện quyền và trách nhiệm làm “chủ” của mình thông qua hội đồng uỷ thác. Mọi quyết định quan trọng trong đó có việc chỉ định ban giám hiệu trường và đề ra những phương hướng chính sách lớn liên quan đến quyền lợi và sự phát triển của trường phải được thực hiện trong các cuộc họp của hội đồng uỷ thác.
Việc thành lập hội đồng uỷ thác và thiết lập cơ cấu của nó gắn liền với việc nhà nước phân quyền làm “chủ” đại học cho địa phương và các bộ, ngành liên quan. Chỉ những định chế có lợi ích gắn chặt với định mệnh của một trường đại học mới thực hiện tốt vai trò làm “chủ”.
Việc giao đại học về địa phương có thể bắt đầu từ các tỉnh thành phố có khả năng tự chủ ngân sách. Có thể xem xét việc cho phép địa phương trích lập quỹ hỗ trợ giáo dục đại học từ khoản ngân sách địa phương phải chuyển về trung ương nếu địa phương cam kết bảo trợ tài chính cho đại học mình làm chủ. Khi ấy, trách nhiệm đảm bảo tài chính cho việc vận hành trường của nhà nước sẽ giảm bớt một cách tương ứng.
Tăng đầu tư toàn xã hội vào hệ thống đại học
Nhóm nghiên cứu đưa ra Ba thách thức tài chính lớn trong giáo dục đại học Việt Nam hiện nay là:
Các trường đại học thiếu kinh phí một cách trầm trọng.
Thứ nhất, do mức đầu tư của nhà nước cho các trường công còn rất thấp.
Thứ hai, mức học phí cho các trường công cũng rất thấp.
Thứ ba, các nguồn thu khác như nguồn thu từ dịch vụ, nguồn thu từ dịch vụ khoa học, công nghệ, từ viện trợ, tài trợ, hiến tặng cũng quá thấp, trung bình chỉ khoảng 3% tổng nguồn thu hiện nay của các trường đại học Việt Nam.
Hệ quả của các vấn đề nêu trên là chất lượng đào tạo suy giảm, cơ sở vật chất không đáp ứng yêu cầu và xuống cấp, các trường phải tăng số lượng sinh viên và mở rộng các hệ đào tạo phi chính quy làm giảng viên quá tải, không còn đủ thời gian dành cho nghiên cứu khoa học.
Nhóm đối thoại khuyến nghị:
Cải cách tài chính cho hệ thống các trường đại học Việt Nam cần tập trung vào ba lĩnh vực ưu tiên sau: Tăng đầu tư toàn xã hội vào hệ thống đại học, bao gồm cả tài trợ từ ngân sách lẫn đóng góp của xã hội; Tự chủ tài chính cho các đại học; Thay đổi cách phân bổ ngân sách cho từng trường.
Cần lưu ý rằng tăng tự chủ không có nghĩa là Nhà nước giảm hỗ trợ cho giáo dục đại học. Ngược lại, Nhà nước cần ưu tiên đầu tư cho lĩnh vực này, nhất là ưu tiên đầu tư về nghiên cứu khoa học, vì đây là đối tượng đầu tư quan trọng trong sự phát triển lâu dài của Việt Nam. Tăng tự chủ là một phương thức giúp nhà nước phân bổ ngân sách hỗ trợ cho đại học một cách hiệu quả hơn thay vì cào bằng, hay theo những chỉ tiêu có thể bàn cãi.
Cơ chế thị trường cần được coi là động lực mạnh mẽ nhất để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, huy động nguồn thu và sử dụng nguồn lực hiệu quả. Dùng thị trường làm động lực có nghĩa là tăng tự chủ, tạo điều kiện cho các trường (công và tư) cạnh tranh với nhau về chất lượng giáo dục, mức học phí, và số lượng tuyển sinh, và qua đó, phục vụ xã hội tốt hơn.
Song song, Chính phủ cần can thiệp để giảm thiểu các khiếm khuyết chính sau của thị trường: Bất công bằng trong giáo dục: chỉ người giàu mới đủ tiền đi học; Thiếu thông tin về chất lượng của các trường để người đi học lựa chọn đúng đắn; Các trường chỉ tập trung đào tạo theo nhu cầu của thị trường, và xem nhẹ những ngành có lợi ích lâu dài cho xã hội.
Video đang HOT
Nhóm đối thoại kiến nghị: Giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp cho sinh viên
Chất lượng giáo dục đại học công bố hàng năm
Nhóm đối thoại cho rằng, có bốn công cụ đảm bảo chất lượng chính như sau: Kiểm định chất lượng, công khai thông tin chất lượng, xếp hạng và đối sánh.
Đối chiếu với hệ thống đảm bảo chất lượng ở nước ta hiện nay, có thể thấy mặc dù cả bốn công cụ trên đều đã được triển khai, vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề.
Theo nhóm đối thoại, để nâng cao chất lượng giáo dục đại học, áp dụng đồng bộ cả 4 công cụ của đảm bảo chất lượng kể trên là một điều cần làm. Theo đó, giao cho một tổ chức độc lập tiến hành việc thu thập thông tin chất lượng giáo dục đại học và công bố hàng năm trên các phương tiện thông tin đại chúng. Các trường đại học, cao đẳng có nghĩa vụ phối hợp với tổ chức nói trên trong quá trình thu thập dữ liệu.
Có thể tham khảo từ các nước đã áp dụng trước đó như Mỹ, Anh, Hàn Quốc để thiết lập bộ chỉ số thông tin chất lượng. Bộ thông tin chỉ số có thể bao gồm: mức độ hài lòng của sinh viên sau tốt nghiệp, tỷ lệ sinh viên có việc làm 12 tháng sau tốt nghiệp, thu nhập trung bình của sinh viên sau tốt nghiệp …
Tuy vậy, trong điều kiện nguồn lực hữu hạn, nhà nước nên tập trung vào hai công cụ kiểm định chất lượng và công khai thông tin chất lượng hơn vì tính khả thi, và tính phổ dụng (có thể cho toàn bộ hệ thống giáo dục đại học) cao hơn.
Giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp.
Nhóm đối thoại cho rằng vấn đề nổi cộm nhất trong nghiên cứu khoa học và giảng dạy ở đại học Việt nam là sự ưu tiên dành cho số lượng thay cho chất lượng.
Vấn đề này thể hiện trên nhiều bình diện khác nhau, đó là khả năng nghiên cứu khoa học; Tài trợ nghiên cứu khoa học của nhà nước; Môi trường trao đổi và hợp tác; Số môn học và số giờ lên lớp bởi về số lượng, học trình ở đại học Việt Nam nặng hơn nhiều so với đại học ở các nước tiên tiến.
Để lấy ví dụ, số môn học toán ở ĐHQGTPHCM nhiều gấp hai số môn học toán ở Đại học Chicago. Tại ĐHKHXHNV, sinh viên phải hoàn thành 60 môn học trong 7 học kỳ, trong khi trung bình sinh viên ở đại học Mỹ trung bình học 4 môn một học kỳ. Nhìn chung, sinh viên Việt nam học nhiều môn hơn, nhưng vì ít làm đề án, bài tập nên mức độ hiểu biết không sâu, kỹ năng tự học và nghiên cứu còn rất yếu so với sinh viên ở các nước phát triển.
Vì số lượng môn học quá nhiều (và một phần vì lý do thu nhập), số lượng giờ đứng lớp của giảng viên hiện tại là quá lớn. Điều này ảnh hưởng tiêu cực đến chất lượng công tác nghiên cứu khoa học và hướng dẫn sinh viên tìm tòi khám phá…
Khuyến nghị: Giảm số môn bắt buộc, giảm số giờ lên lớp. Tăng số giờ thực tập, thực hành, làm đề tài và làm bài tập. Khuyến khích việc sử dụng trực tiếp học liệu do các trường đại học tiên tiến cung cấp để giảng viên giảm giờ dạy, tăng giờ hướng dẫn thực hành và làm bài tập.
Lấy trình độ nghiên cứu khoa học làm ưu tiên hàng đầu cho việc tuyển chọn giảng viên. Thiết lập một số vị trí với điều kiện làm việc và đãi ngộ đặc biệt để tạo ra những đầu tầu trong nghiên cứu khoa học cơ bản và ứng dụng. Thiết lập cơ chế tài chính để hỗ trợ chi phí cho các nhà khoa học nước ngoài sang Việt Nam làm việc.
Bên cạnh đó, tài trợ nghiên cứu khoa học của nhà nước; tạo môi trường trao đổi và hợp tác.
Năm 2014, Nhóm đối thoại giáo dục đã tổ chức hội thảo với chủ đề “ Đối thoại giáo dục VN: Cải cách giáo dục ĐH” có sự hiện diện của Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ Nguyễn Quân, lãnh đạo Bộ GD-ĐT và các nhà giáo dục, đại diện các trường ĐH, CĐ, các doanh nhân.
Thiết lập nghị trường giảng viên
Nhóm đối thoại cho rằng, uy tín của các trường đại học trong xã hội không chỉ phụ thuộc vào tiềm năng tài chính và chất lượng nghiên cứu khoa học và giảng dạy mà còn phụ thuộc vào các định chế dân chủ nội bộ, cũng như khả năng duy trì đạo đức và tự do trong học thuật. Bản thân chất lượng nghiên cứu khoa học và giảng dạy cũng bị chi phối bởi khả năng duy trì đạo đức và tự do trong học thuật. Môi trường học tập và nghiên cứu khoa học trong các trường đại học có lành mạnh hay không phụ thuộc vào tính minh bạch của các định chế dân chủ nội bộ.
Nhóm đối thoại khuyến nghị: Thiết lập nghị trường giảng viên (Faculty Senate) với vai trò tham vấn mọi vấn đề liên quan đến giảng dạy và nghiên cứu khoa học trong trường. Nghị trường giảng viên có thể đưa ra tiếng nói chung của giảng viên đối với các hiện tượng vi phạm đạo đức khoa học hoặc tự do học thuật. Nghị trường giảng viên bầu ra đại diện để tham vấn ban giám hiệu nhà trường.
Thiết lập nghị trường sinh viên (Student Senate) với vai trò tham vấn mọi vấn đề liên quan đến học tập và đời sống sinh viên. Nghị trường sinh viên bầu đại diện của mình để tham vấn ban giám hiệu nhà trường.
Thiết lập các ủy ban thông qua đó giảng viên có thể tham vấn trực tiếp cho Ban giám hiệu. Trong số những ủy ban như thế có thể kể đến: ủy ban kế hoạch, ủy ban tuyển dụng, ủy ban đề bạt, ủy ban đánh giá thường niên … Ban giám hiệu giao cho các uỷ ban nhiệm vụ tham vấn về những vấn đề cụ thể.
Mỗi trường đại học có quy chế nội bộ để điều tiết quan hệ giữa hội đồng uỷ thác, ban giám hiệu, nghị trường giảng viên, nghị trường sinh viên và các uỷ ban, phù hợp với quy chế chung của nhà nước.
Các trường đại học được tự chủ trong việc thiết lập ưu tiên trong nghiên cứu khoa học và học trình giảng dạy.
Nhóm Đối thoại giáo dục gồm: Trần Ngọc Anh (Đại học Indiana, Hoa Kỳ); Đỗ Quốc Anh (Học viện Nghiên cứu Chính trị Sciences Po, Paris, Pháp); Vũ Thành Tự Anh (Đại học Princeton, Hoa Kỳ và Chương trình giảng dạy kinh tế Fulbright, Việt Nam); Ngô Bảo Châu (Đại học Chicago, Hoa Kỳ và Viện nghiên cứu cao cấp về toán, Việt Nam); Lê Hồng Giang (Sydney); Phạm Hùng Hiệp (Đại học Văn Hoá Trung Hoa, Đài Loan) ; Ngô Quang Hưng (Đại học bang New York ở Buffalo, Hoa Kỳ); Phạm Ngọc Thắng (Hà Nội); Phạm Hữu Tiệp (Đại học Arizona, Hoa Kỳ); Trịnh Hữu Tuệ (Đại học Wisconsin tại Milwaukee, Hoa Kỳ); Vũ Hà Văn (Đại học Yale, Hoa Kỳ); Nguyễn Phương Văn (TPHCM).
Hồng Hạnh ( lược ghi)
Theo Dantri
Cuộc hội ngộ xúc động của các cựu lưu học sinh Việt Nam tại Azerbaijan
Bao kỷ niệm của tuổi trẻ, những bài hát quen thuộc thời sinh viên, những năm tháng khổ luyện nơi xứ người... đã được ôn lại trong suốt hành trình trở lại thăm trường cũ của các lưu học sinh Việt Nam từng học tập tại thủ đô Baku, Azerbaijan. Và hành trình ấy cũng khiến nhiều người không giấu được đôi mắt rưng rưng...
Lãnh đạo Đại học Dầu khí Quốc gia Azerbaijan đón đoàn lưu học sinh Việt Nam trở lại thăm trường cũ
"Hồi đó đi tàu mấy nghìn cây số, cả tháng trời mới tới nơi, chứ làm gì được đi máy bay như bây giờ", cựu du học sinh Phạm Quốc Bảo, nguyên Vụ trưởng Vụ đối ngoại, văn phòng Quốc hội, nguyên Đại sứ Việt Nam tại Cộng hòa Bulgaria kiêm nhiệm Cộng hòa Macedonia, kể về hành trình tới Baku năm xưa trên chuyến bay trở lại thăm Azerbaijan.
"Ngày ấy, sinh viên nào không ăn được, ngủ được thì gầy rộc đi. Cả tháng trời chứ có ít đâu. Có người còn chưa từng đi tàu nên bị say", anh Bảo kể tiếp.
Những kỷ niệm như thế không thiếu trong hành trình trở lại thăm mái trường xưa của gần 40 cựu sinh viên Việt Nam tại Baku đầu tháng 5/2015.
Khi Azerbaijan còn là một nước Cộng hòa thuộc Liên Xô cũ, nhiều thế hệ sinh viên Việt Nam đã được cử sang Baku học tập. Trong thời gian từ 1967-1985, có trên 2.000 sinh viên Việt Nam đã đến Azerbaijan học tại các trường đại học ở Baku. Họ đã trở về quê hương và góp phần xây dựng đất nước.
Nhiều du học sinh tại Baku khi trở về đã có các đóng góp lớn lao cho nước nhà, gặt hái những thành công trong sự nghiệp và có vị trí trong ban lãnh đạo đảng, nhà nước, chính phủ, các trường đại học, các viện nghiên cứu hàng đầu của Việt Nam. Những lưu học sinh thuộc các khóa đầu giờ đã nghỉ hưu. Nhưng tất cả các cựu sinh viên tại Baku đều có chung một mong ước trở lại thăm trường xưa.
Viện trưởng Viện dầu khí quốc gia Việt Nam Phan Ngọc Trung (phải) vui mừng gặp lại thầy giáo cũ
Sau 30, 40 năm, thậm chí có người hơn 40 năm, các lưu học sinh tại Baku đã có dịp trở lại mảnh đất gắn liền với những năm tháng nhiệt huyết của tuổi trẻ.
Những năm tháng khổ luyện
"Hồi đó vui lắm. Ngoài hăng say học tập, các sinh viên Việt Nam rất tích cực tham gia các hoạt động văn hóa văn nghệ. Chúng tôi ai cũng biết hát và có các đoàn văn nghệ đi biểu diễn ở khắp nơi", PGS.TS Đặng Thị Cẩm Hà, Viện Công nghệ Sinh học, Viện Khoa học và Công nghệ Việt Nam, nhớ lại thời học tập tại Đại học Quốc gia Baku (Đại học Tổng hợp Baku).
Trong những câu chuyện kể về thời sinh viên, chị Hà không ít lần rưng rưng nước mắt vì xúc động khi nhớ đến các kỷ niệm trong suốt quá trình học, đặc biệt là tình cảm của các cô, các thầy dạy cho mình. Đa số thầy cô đã ra đi nhưng tình yêu thương và trách nhiệm làm thầy đã cung cấp các kiến thức cơ bản quan trọng nhất mà họ đã mang theo trong suốt hành trang làm khoa học và quản lý. Hơn thế nữa các thầy cô đã gieo vào những sinh viên Việt Nam sự yêu nghề sâu sắc để họ đi con đường khoa học, quản lý với thành công vững chắc. Đó cũng là tâm trạng của tất cả các cựu lưu học sinh khác trong chuyến trở lại Baku lần này.
Các cựu lưu học sinh tại Đại học Tổng hợp Baku cho hay, thời đó một phụ nữ phụ trách nhà ăn của trường rất thương các sinh viên Việt Nam. Mỗi một rúp mà sinh viên đáng lẽ phải trả thì bà ấy chỉ tính 60 kopec. Bà thấy sinh viên Việt Nam nghèo, bà thương những đứa trẻ trong chiến tranh, bố mẹ sống trong chiến tranh không biết sống chết ra sao. Người Việt Nam có truyền thống yêu nước nhớ nguồn, nên những tình cảm ấy các lưu học sinh không bao giờ quên được.
Lãnh đạo Đại học Dầu khí Quốc gia Azberbaijan chụp ảnh lưu niệm với đoàn lưu học sinh Việt Nam
Anh Nguyễn Tuấn Hoa, cựu sinh viên Đại học Tổng hợp Baku, là một trong những du học sinh đầu tiên đến Baku năm 1967.
"Năm 1967, các sinh viên được tuyển sang Liên Xô học tập khá đông. Khi ấy, chiến tranh đang rất khốc liệt, bom đạn dữ dội. Các sinh viên Việt Nam khi đó mới sang rất gầy gò, ốm yếu khiến các thầy cô rất thương. Người Liên Xô rất đồng cảm với Việt Nam vì họ cũng mới thoát khỏi chiến tranh, họ hiểu sự tàn khốc của chiến tranh. Họ đã thể hiện tình cảm đó qua sự dạy dỗ đối với các sinh viên Việt Nam".
Anh Hoa cho hay, khi vào học tại Đại học Tổng hợp Baku, các sinh viên Việt Nam phải học chung với sinh viên nước ngoài chứ không có lớp học riêng, hoàn toàn phải học tiếng Nga và phải theo kịp bài giảng của thầy. Thầy nói nhanh, trong khi tiếng Nga của học sinh Việt Nam chưa đủ nên rất nôn nóng làm thế nào để theo được bài giảng của thầy. Thầy đã yêu cầu các sinh viên bản địa giúp sinh viên Việt Nam.
Những tháng đầu tiên mới vào học, sinh viên Việt Nam phải mượn vở của các học sinh bản địa để chép lại và vào thư viện để bổ sung lại bài. Sinh viên Việt Nam rất chăm chỉ. Ban đầu thầy rất ái ngại về sức khỏe và khả năng tiếng Nga của sinh viên Việt Nam, nhưng bằng sự nỗ lực, chỉ đến cuối năm đầu tiên các sinh viên Việt Nam đã vươn lên dẫn đầu cả lớp.
Đoàn cựu lưu học sinh Việt Nam chụp ảnh với cán bộ trường Đại học Tổng hợp Baku trong chuyến thăm trường
Thầy, trò cùng khóc khi Bác mất
"Thành tích ấy khiến các thầy và các bạn cùng lớp vô cùng ngạc nhiên. Các bạn cùng lớp đã hỏi chúng tôi bí quyết để học tốt, chúng tôi trả lời rằng: "Việt Nam đang chiến tranh, sang đây chỉ có việc học thôi nên phải cố gắng hết mình". Chúng tôi lên lớp từ 7 giờ sáng đến 2 giờ chiều, sau đó ăn vội rồi lại vào thư viện học đến 10 giờ tối. Về nhà ăn uống xong lại học tiếp đến 2 giờ sáng mới ngủ và 6 giờ hôm sau đã dậy. Cứ như vậy mấy năm trời và bù lại chúng tôi học rất giỏi", anh Hoa nhớ lại những tháng ngày học tập gian khổ tại nước bạn.
Các cựu sinh viên Việt Nam tại Baku nói rằng tình thầy trò sâu đậm là điều mà họ không bao giờ quên được. Các thầy cô giáo chăm sóc, lo lắng cho các sinh viên Việt Nam như con cháu mình, dành tình cảm nhiều hơn cả so với các sinh viên khác.
Một trong những kỷ niệm khiến anh Hoa nhớ mãi không quên là khi Chủ tịch Hồ Chí Minh mất năm 1969, các sinh Việt Nam đã khóc ròng trong nhiều ngày. "Các thầy cô giáo nhìn sinh viên Việt Nam thương lắm nên đến tận ký túc xá để động viên nhưng khi nhìn thấy chúng tôi đứng nghiêm trang lặng lẽ khóc bên di ảnh của Người thì chính các thầy cũng không cầm được nước mắt. Khi thấy chúng tôi trong đau thương vẫn học tập miệt mài, các thầy còn nói "thôi học vừa phải thôi, còn phải giữ sức khỏe để học tiếp nữa"... Đó là những kỷ niệm suốt đời chúng tôi không bao giờ quên được. Không có thầy nào lại khuyên trò học ít thôi cả. Tình cảm đó là vô bờ vô bến", anh Hoa nói.
Các cựu lưu học sinh Việt Nam cất tiếng hát ở mái trường xưa
Baku ngày trở lại
Và khi trở lại Baku sau 30-40 năm, các lưu học sinh Việt Nam đều ngỡ ngàng trước sự thay đổi tới 95% của diện mạo thành phố. Những con đường thân quen từ ký túc tới giảng đường không còn, những ngôi nhà nhỏ, những con phố nhỏ giờ đây đã được thay bằng các đường phố rộng thênh thang, những tòa nhà cao tầng kiên cố. Nhưng những kỷ niệm xưa vẫn hiện về vẹn nguyên như ngày nào.
"5 năm ngày ấy như một cuốn phim. Các kỷ niệm hiện về rõ như mới hôm qua", chị Hà rưng rưng.
Các lưu học sinh Việt Nam đã không kìm được xúc động, thậm chí còn òa khóc nức nở khi tới thăm mái trường xưa yêu dấu. Đoàn lưu học sinh Việt Nam đã trở lại thăm Đại học Tổng hợp Baku và Đại học Dầu khí quốc gia Azerbaijan, nơi họ được đón tiếp trong không khí nồng ấm tình thầy trò.
Phần lớn các thầy cô giáo ngày đó nay đã qua đời. Các lưu học sinh chỉ gặp lại các lãnh đạo nhà trường, các giảng viên đa phần còn trẻ nhưng tình cảm vẫn nồng ấm như thuở nào. Những kỷ niệm kể lại có thể không giống nhau, nhưng chữ "tình" vẫn vẹn nguyên đó.
Những du học sinh ngày đó lại cất vang các bài hát quen thuộc năm xưa như Telebe (Sinh viên), Chiều Mátxcơva, Đôi bờ, Thanh niên sôi nổi, Cây thùy dương, Giai điệu... trên giảng đường. Xen lẫn trong tiếng vỗ tay mỗi lần kết thúc các màn biểu diễn ngẫu hứng ấy là tiếng sụt sịt, đôi khi nức nở của những người trong cuộc. Sự xúc động, nghẹn ngào cũng trào dâng trong lòng những người ngoài cuộc chứng kiến các cuộc hội ngộ hiếm có.
Một tiết mục văn nghệ sôi nổi của các cựu lưu học sinh Việt Nam trong bữa tiệc chiêu đãi đoàn do Bộ trưởng giáo dục Azerbaijan Mikayil Cabbarov chủ trì
Vun đắp những ước mơ
Các bài hát ấy không chỉ vang lên trên giảng đường mà còn trong suốt chuyến thăm thủ đô Baku để rồi những bạn trẻ Azerbaijan không hiểu nhiều về các du học sinh Việt Nam cũng đồng cảm. Những tiếng cổ vũ "hát lại đi, hát lại đi" bằng tiếng Azerbaijan sau mỗi tiết mục ngẫu hứng trong bữa tiệc chia tay khiến ai ai đều trào dâng một tâm trạng lưu luyến khó tả.
Kết thúc hành trình đầy cảm xúc, các lưu học sinh Việt Nam trở về với tâm trạng mãn nguyện, bởi ước mơ nhiều năm qua đã trở thành hiện thực. Và họ lại đang ấp ủ những ước mơ khác, để vun đắp cho mối quan hệ hữu nghị truyền thống giữa Việt Nam và Azerbaijan. Đó là kế hoạch thành lập hội thành lập Hội hữu nghị Việt Nam-Azerbaijan, là các dự án hợp tác về kinh tế biển, dầu khí, nông nghiệp, khoa học, giáo dục...
"Truyền thống cần phải được bổ sung và vun đắp bằng các nội dung mới phù hợp với thời đại, phù hợp với tiềm năng của hai đất nước", nguyên Thứ trưởng Bộ Khoa học và Công nghệ Nghiêm Vũ Khải, cựu sinh viên Đại học Tổng hợp Baku, đúc kết sau chuyến trở lại Baku mà ông nói là thành công hơn mong đợi.
An Bình
Baku - Tháng 5/2015
Theo Dantri
Từ miền sông nước, nữ sinh Việt thành danh trên đất Mỹ Nữ thạc sĩ trẻ Nguyễn Trang đặt chân đến Mỹ với hai bàn tay trắng, bắt đầu từ những công việc không lương. Hiện tại, kho thành tích học tập và kinh nghiệm làm việc tại Mỹ của Trang đã trở thành niềm khao khát của nhiều tân du học sinh. Nguyễn Trang sinh ra và lớn lên từ một vùng sông nước...