Nhọc nhằn mưu sinh khi Đồng bằng sông Cửu Long không còn mùa lũ
Hai năm liên tiếp, Đồng bằng sông Cửu Long không có nước lũ. Đất đai bạc màu, môi trường ô nhiễm, nguồn thủy sản tự nhiên cạn kiệt đang khiến cho người dân sống hai bên bờ sông Cửu Long trở nên cơ cực.
Sạt lở bờ sông. (Ảnh minh họa. Nguồn: TTXVN)
Đến với các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An, chúng ta không còn thấy cảnh người người giăng lưới bắt cá trên sông. Khung cảnh làng quê thanh vắng bởi nhiều người bỏ nhà đi làm ăn xa.
Không có lũ, cá tôm không về
Theo chu kỳ hằng năm, cứ đến Rằm tháng 7 âm lịch là nước lũ từ đầu nguồn đổ về trắng đồng các tỉnh An Giang, Đồng Tháp, Long An… nhưng hai năm nay, cảnh tượng này không còn xuất hiện. Biến đổi khí hậu, mưa nắng thất thường, đầu nguồn sông Mekong hàng chục con đập thủy điện đã được xây dựng, khiến con nước bị điều chỉnh theo ý muốn của con người.
Không có lũ thì không có phù sa bồi đắp, chế độ thủy văn thay đổi khiến Đồng bằng sông Cửu Long bị biến dạng nhanh chóng. Sụt lún, sạt lở đang diễn ra ở nhiều nơi.
Các nhà khoa học Việt Nam và thế giới đã cảnh báo về tác hại của các đập thủy điện trên dòng chính sông Mekong cũng như sự kết hợp bất lợi của hiện tượng biến đổi khí hậu. Nhưng để ứng phó hiệu quả thì chưa có địa phương nào làm tốt.
Chúng tôi đến Đồng bằng sông Cửu Long vào giữa mùa nước nổi (mùa lũ) mà người dân nơi đây bao đời gắn bó. Nay ở đây chẳng còn cảnh “Rằm tháng 7 nước nhảy bờ ruộng.” Nhiều cánh đồng lúa Thu Đông mới thu hoạch còn chỏng chơ gốc rạ. Có nơi ở Tam Nông, Tháp Mười (Đồng Tháp), người dân đang làm đất xuống giống lúa vụ 3.
Chúng tôi đi dọc tuyến kênh Bảy Xã ở thị xã Tân Châu, tỉnh An Giang để tìm về đầu nguồn sông Cửu Long. Nếu như mọi năm, vào thời điểm này, khắp nơi đồng ruộng mênh mông nước, thẳng cánh cò bay với một vùng nước trắng xóa, tôm, cá đầy đồng… thì nay mọi thứ thay đổi hoàn toàn. Ruộng đồng trơ gốc rạ, chuột bọ bắt đầu sinh sôi. Người dân hai bên bờ kênh Bảy Xã đa số sống nhờ việc giăng lưới, đặt lợp, trồng rau nhút, hái bông súng trong mùa nước nổi để mưu sinh. Thế nhưng, cả mấy tháng nay, đi đến đâu, chúng tôi cũng chỉ nghe người dân than vãn đói kém.
Ông Nguyễn Văn Giang, thị trấn Long Bình, huyện An Phú, tỉnh An Giang, gần như cả cuộc đời gắn bó với sông nước, kiếm sống bằng nghề đánh bắt cá mùa nước nổi trên sông Bình Di (giáp giới với Campuchia), cho biết chưa năm nào mực nước trên sông lại thấp như vậy, có nơi thấp hơn mặt ruộng nên nước không ngập đồng, không có cá về. Cả 2 tháng nay ông chỉ ngồi chơi, ngóng lũ chứ cũng không biết làm gì khác vì ông tuổi đã lớn, chẳng ai thuê mướn làm gì.
Xã Vĩnh Hội Đông, huyện An Phú (An Giang) là nơi đón lượng nước và cá đầu tiên từ thượng nguồn sông Mekong qua sông Châu Đốc để hòa vào dòng sông Hậu. Người dân nơi đây cũng ngày đêm ngóng lũ về.
Trong căn nhà lá trống hoác, bà Nguyễn Thị Bé (50 tuổi) ngán ngẩm ngồi nhìn ra sông. Bà cho biết những năm trước, mỗi ngày đi thả dớn, bà cũng được 20-30kg cá tôm, có giá 200.000-300.000 đồng. Mấy năm nay khó khăn hơn nhiều. Năm ngoái lũ về ít, mỗi ngày bà bắt được chục kg còn năm nay, bà chỉ bắt được vài kg.
Video đang HOT
Cảnh bắt cá mùa nước nổi trở nên hiếm hoi khi mùa lũ không về.
Theo thống kê của tỉnh An Giang, lũ không về khiến hơn 5.000 lao động mưu sinh mùa nước nổi mất việc làm, không có thu nhập. Lực lượng lao động này phần lớn là nông dân trồng lúa, nhưng có ít đất sản xuất nên chỉ mong có mùa nước nổi để cải thiện cuộc sống.
Còn tại tỉnh Đồng Tháp, số lao động mưu sinh lúc nông nhàn mùa nước nổi cũng khoảng gần 10.000 người. Ở các huyện Hồng Ngự, Tân Hồng, Tam Nông, Thanh Bình…, người dân sau khi thu hoạch lúa thường chờ nước lũ về để ra đồng bắt cá, trồng rau… kiếm thêm thu nhập.
Theo anh Nguyễn Văn Cao ở xã Thường Thới Hậu, huyện Hồng Ngự, tỉnh Đồng Tháp, mùa nước nổi những năm trước, mỗi ngày gia đình anh cũng có thu nhập từ 800.000 đồng đến 1 triệu đồng từ nghề đan lưới và ra đồng bắt cá. Nay không có lũ, anh đành làm các việc lặt vặt kiếm sống qua ngày.
Sạt lở gia tăng
Không có lũ bồi đắp phù sa trong khi lại có nhiều dự án khai thác cát trên sông Cửu Long khiến cho dòng sông bị biến dạng, thay đổi dòng chảy dẫn đến tình trạng sạt lở hai bên bờ gia tăng.
Căn nhà lá tềnh toàng nằm sát quốc lộ 30 của vợ chồng anh Bùi Văn Ngợi ở ấp 3, xã An Phong, huyện Thanh Bình, tỉnh Đồng Tháp có nguy cơ bị cuốn xuống sông bất cứ lúc nào khiến ai nhìn cũng ái ngại.
Gia chủ cho biết 10 năm trước, căn nhà chính của anh đã bị nước sông cuốn phăng chỉ trong một đêm. Đây là căn nhà tạm mà vợ chồng anh dựng lại để ở bởi gia đình không còn đất nào khác. Hai năm nay, tốc độ sạt lở bờ sông rất nhanh, khoảng đất từ vách nhà đến mép sông 5 mét giờ chỉ còn hơn 1 mét.
“Ban đêm hai vợ chồng tôi phải thay nhau thức để canh vì nhà có thể bị sụt xuống sông bất cứ lúc nào. Đứa con 6 tuổi tối đến phải sang nhà ông bà nội vì sợ nhà trôi xuống sông không chạy kịp,” anh Ngợi chia sẻ.
Cùng chung cảnh trên, căn nhà của bà Nguyễn Thị Phần (54 tuổi) ở phường An Lạc, thị xã Hồng Ngự, Đồng Tháp cũng ngày càng bị thu hẹp sau những lần chạy sạt lở. Mới đây, bà phải thuê người mua cây, đóng cọc lại chỗ đất mới sạt lở hết 4 triệu đồng. Bà sống nhờ chăn nuôi gà, vịt và mùa lũ về thì đi thả lưới. Nhưng năm nay không lũ, nhà vẫn tiếp tục sạt lở nên cuộc sống của bà rất cơ cực.
Theo Sở Tài nguyên và Môi trường tỉnh Đồng Tháp, năm 2014, tổng diện tích đất bị sạt lở trên 12 ha, thiệt hại hơn 30 tỷ đồng. Năm 2015, tỉnh có 35 xã, phường bị ảnh hưởng với chiều dài hơn 35 km dọc sông, diện tích đất bị mất hơn 4,5 ha và thiệt hại ước khoảng 31 tỷ đồng. Hiện có 2.141 hộ nằm trong vùng sạt lở và riêng 6 tháng đầu năm nay, trên địa bàn đã xảy ra 9 vụ sạt lở bờ sông làm mất hơn 3 ha đất, thiệt hại trên 10 tỷ đồng.
Báo cáo của Ủy ban Nhân dân tỉnh Đồng Tháp cho thấy đến cuối tháng 12/2015, tổng số hộ cư trú tại vùng ngập lụt mới phát sinh và vùng sạt lở nguy hiểm cần đưa vào đối tượng “Chương trình xây dựng cụm, tuyến dân cư và nhà ở vùng ngập lũ Đồng bằng sông Cửu Long” giai đoạn 2016-2020 là 6.120 hộ. Mặc dù không có lũ nhưng nhu cầu được vào sống trong các cụm tuyến dân cư vượt lũ vẫn tăng lên bởi người dân mất đất vì sạt lở.
Theo thống kê của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long, hiện nay ở 13 tỉnh, thành trong vùng có 126 tổ chức, doanh nghiệp được cấp phép khai thác cát trên sông Cửu Long. Nhiều chuyên gia môi trường cho rằng với tốc độ khai thác như hiện nay, toàn bộ trữ lượng cát trên sông Tiền, sông Hậu sẽ hết sau 30 năm nữa.
Nếu khai thác toàn bộ trữ lượng này mà không xem xét tác động đến môi trường thì hậu quả sẽ rất khó lường. Trong khi đó, theo đánh giá của Bộ Tài nguyên và Môi trường, nhu cầu sử dụng cát của các tỉnh Đồng bằng sông Cửu Long và Thành phố Hồ Chí Minh từ nay đến năm 2020 vẫn rất cao, cần khoảng 1 tỷ m3 mỗi năm.
Tiến sỹ Lê Anh Tuấn, Phó Viện trưởng Viện nghiên cứu biến đổi khí hậu (Đại học Cần Thơ) cho rằng tình hình sạt lở ở các tỉnh vùng Đồng bằng sông Cửu Long sẽ còn nghiêm trọng hơn khi không có nước lũ từ thượng nguồn. Lũ đóng vai trò quan trọng trong việc hình thành, tồn tại của Đồng bằng sông Cửu Long. Không có lũ, không có phù sa bồi đắp, đồng bằng sẽ bị sụt lún, sạt lở và tan rã dần. Hiện, các địa phương đang gánh hậu quả sạt lở.
Các nước ở thượng nguồn như Trung Quốc, Lào và Campuchia xây dựng các đập thủy điện tích trữ nước vào mùa lũ. Do đó, cát và phù sa chảy theo dòng nước về hạ nguồn giảm dần khiến các dòng sông sẽ tự bào mòn, xâm thực hai bên bờ để cân bằng dòng chảy nên gây ra sạt lở. Bên cạnh đó, tình trạng khai thác cát quá mức khiến thay đổi dòng chảy, dẫn đến sạt lở bờ sông, tiến sỹ Tuấn phân tích.
Theo Vietnam
Cần cơ chế hợp tác chủ động về nguồn nước sông Mê Kông
Lượng nước ngọt từ sông Mê Kông đổ về khu vực ĐBSCL đã tăng lên đáng kể, giúp một số địa phương có thêm nguồn nước chống chọi với hạn hán.
Trong chuyến công tác mới đây đến đập Tiểu Loan và Cảnh Hồng trên sông Mê Kông qua tỉnh Vân Nam (còn gọi là sông Lan Thương) do Bộ Ngoại giao Trung Quốc tổ chức, phóng viên Đài TNVN có bài viết liên quan đến thông tin về quy trình vận hành, xả nước đập thủy điện thượng nguồn ở Trung Quốc và cơ chế hợp tác, cung cấp thông tin giữa các nước lưu vực sông Mê Kông - Lan Thương trong việc đối phó với hạn hán, mặn xâm nhập khu vực hạ du của dòng sông này.
Trên dòng sông Lan Thương qua tỉnh Vân Nam, Trung Quốc đã hoàn thành 6 đập thủy điện gồm: Công Quả Kiều, Tiểu Loan, Mạn Loan, Đại Triều Sơn, Ngọa Trát Độ và Cảnh Hồng.
Cảnh Hồng là con đập cuối cùng trên sông Lan Thương tính đến thời điểm hiện nay xả nước qua phát điện vào sông Mê Kông qua Myanmar, Lào, Thái Lan, Campuchia và Việt Nam.
Mặt trước của đập Tiểu Loan - nơi nước xả xuống đập Cảnh Hồng phía hạ du
Ông Đường Thanh Đệ, Phó giám đốc Nhà máy thủy điện Cảnh Hồng cho biết, đập thủy điện Cảnh Hồng xây dựng tháng 7/2013, phát điện vào tháng 6/2008, với 5 tổ máy phát điện, tổng công suất 1.750 MW. Đập nước Cảnh Hồng độ cao 108m, chiều ngang 746m, dung tích trữ nước khoảng 1,2 tỷ m3.
Ông Đường Thanh Đệ nói: "Về mặt điều hành, quy chế vận hành của đập Cảnh Hồng chủ yếu là dựa theo yêu cầu của cấp trên và tình hình sử dụng điện, cũng như tình hình nước đến từ thượng nguồn. Cơ chế vận hành chia thành 2 giai đoạn, mùa khô và mùa lũ. Cơ chế này được vận hành hợp lý tùy thuộc vào lưu lượng nước về từ thượng nguồn bởi vì trên đập nước Cảnh Hồng còn có một số đập nước khác".
Báo cáo của Nhà máy thủy điện Cảnh Hồng cho thấy, trong thời gian từ 15/3 đến 31/5 vừa qua, đập Cảnh Hồng đã xả nước qua phát điện vào sông Mê kông theo 3 giai đoạn, với tổng lượng nước xả đạt khoảng 12,6 tỷ m3, gấp 1,96 lần so với lượng nước tự nhiên, và gấp 1,4 lần so với lượng nước điều tiết thông thường. Theo ông Vương Hồng Minh, đại diện Cục Khoa học và Công nghệ, Vụ hợp tác quốc tế thuộc Bộ Thủy lợi Trung Quốc đang phối hợp với các nước hạ nguồn trong đó có Việt Nam để đánh giá tình hình xả nước lần này.
Trong khuôn khổ hợp tác, các nước lưu vực sông Mê kông - Lan Thương đang ở mức nhóm công tác chung với các cuộc họp hàng năm. Nếu gặp vấn đề khẩn cấp, Bộ trưởng của 6 nước sẽ nhóm họp. Trong khuôn khổ hợp tác cứ 2 năm sẽ tổ chức hội nghị cấp cao giữa lãnh đạo Mê kông - Lan Thương.
Ông Vương Hồng Minh cho biết: "Phía Trung Quốc với thái độ cởi mở đối với việc hợp tác về nguồn nước tài nguyên với 6 nước. Đã có cơ chế đối thoại Trung Quốc - Myanmar và 4 nước Ủy hội Mê Kông. Đồng thời cũng có cơ chế hợp tác Lan Thương - Mê kông, trong đó lấy hợp tác về nguồn tài nguyên nước là một trong những trọng điểm và sẽ tiếp tục trao đổi về vấn đề này".
Ông Paradis Someth, chuyên gia thuộc Phòng Kế hoạch Phát triển Lưu vực của Ủy hội sông Mê Kông cùng tham gia chuyến công tác chia sẻ: hiện nay, Trung Quốc mới chỉ cung cấp cho Ủy hội sông Mê Kông thông tin về mực nước, quy trình vận hành xả nước của các đập thủy điện của mình trên phần sông Lan Thương trong mùa lũ, còn trong mùa khô thì chưa có, hoặc chỉ trong trường hợp khẩn cấp mới thông tin.
Ủy hội Sông Mê kông đang phối hợp Bộ Thủy lợi Trung Quốc để đánh giá hiệu quả đợt xả nước này. Báo báo sẽ được gửi cho các nước thành viên trong Ủy hội trước khi công bố, dự kiến trong tháng 7/2016.
Ông Paradis Someth nói: "Hiện nay, Trung Quốc và các nước thành viên Ủy hội sông Mê Kông đang cùng hợp tác. Tôi rất hy vọng việc hợp tác tiếp tục được tăng cường và chặt chẽ hơn. Trong thời gian tới chúng tôi mong muốn được chia sẻ thông tin nhiều hơn. Thông qua nội dung bản báo cáo đánh giá chung giữa Trung Quốc và Ủy hội sông Mê Kông, đây cũng là khởi đầu từ phía Trung Quốc cung cấp thông tin trong mùa khô".
Dịp này, bà Trần Thị Bích Vân, Vụ Phó Vụ Thông tin Báo chí Bộ Ngoại giao Việt Nam dẫn đầu đoàn phóng viên khảo sát tình hình xả nước tại đập Cảnh Hồng bày tỏ, Việt Nam mong muốn tăng cường hơn nữa cơ chế hợp tác Lan Thương - Mê Kông để sử dụng nguồn nước hiệu quả hơn trước những tác động của biến đổi khí hậu.
Bà Vân nói: "Chúng tôi đánh giá cơ chế đem lại kết quả bước đầu hỗ trợ các nước hạ du sông Mê Kông ứng phó biến đổi khí hậu. Chúng tôi mong rằng, trong thời gian tới cơ chế hợp tác giữa các nước Mê kông - Lan Thương có những hoạt động thiết thực và trách nhiệm hơn để hỗ trợ cho các nước hạ lưu sông Mê Kông ứng phó với biến đổi khí hậu, đồng thời thông qua đó cũng là kênh để trao đổi thông tin giúp cho các nước ở hạ lưu sông Mê Kông phát triển bền vững và sử dụng nguồn nước hiệu quả nhất".
Vào tháng 3/2016, theo đề nghị của Việt Nam, Trung Quốc và Lào đã thực hiện xả nước tại các đập thủy điện trên thượng nguồn sông Mê Kông để hỗ trợ Đồng bằng sông Cửu Long ứng phó với tình trạng hạn hán và mặn xâm nhập do ảnh hưởng của hiện tượng thời tiết El Nino.
Theo Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, lượng nước ngọt từ sông Mê Kông đổ về khu vực ĐBSCL đã tăng lên đáng kể, giúp một số địa phương có thêm nguồn nước chống chọi với hạn hán và đẩy mặn.
Cũng vào tháng 3 vừa qua, tại Hải Nam, Trung Quốc đã diễn ra Hội nghị Cấp cao Hợp tác Mê Kông - Lan Thương lần thứ nhất với chủ đề "Cùng chung dòng sông, cùng chung tương lai".
Hội nghị đã thông qua Tuyên bố chung Tam Á "Vì một cộng đồng chung tương lai hòa bình và thịnh vượng giữa các nước Mê kông - Lan Thương" và khẳng định cam kết của sáu nước đối với hòa bình, ổn định và phát triển bền vững tại tiểu vùng Mê kông, đồng thời đề ra các định hướng lớn cho hợp tác Mê Kông - Lan Thương./.
Theo VOV
Mỹ viện trợ bổ sung cứu trợ hạn hán, xâm nhập mặn ở ĐBSCL Theo tin từ TLSQ Mỹ tại TP.HCM, Đại sứ Ted Osius ngày 5.7 công bố Washington vừa thông qua khoản viện trợ khẩn cấp bổ sung trị giá 500.000 USD để hỗ trợ người dân Việt Nam bị ảnh hưởng bởi thiên tai. Việt Nam hứng chịu đợt hạn hán và xâm nhập mặn nghiêm trọng nhất trong nhiều thập niên "Khoản viện...