Nhiễm trùng, hoại tử chân, tay vì đắp lá cây vào vết thương
Một số người dân ở Khánh Hòa bị thương ở tay, chân… chủ quan không đến cơ sở y tế điều trị mà tự đắp lá cây dẫn đến vết thương hoại tử nặng, có người suýt phải cưa chân, tay.
Lở loét vì đắp lá cây
Nhìn vết thương trên bắp chân đang dần lành lại, anh Nguyễn Văn Thành (Vĩnh Ngọc, Nha Trang, Khánh Hòa) chia sẻ, rất may được các y, bác sĩ xử lý kịp thời, nếu không chắc anh không đi lại được.
Cuối tháng 9, trong khi gia cố lại mái nhà, anh Thành bị một thanh sắt đâm vào bắp chân nhưng chủ quan không đến bệnh viện, ở nhà tự lấy nước muối rửa rồi hái một số lá cây (theo truyền miệng của người dân) đắp vào vết thương. Sau gần 10 ngày đắp lá cây, vết thương trên chân anh Thành sưng tấy, mưng mủ và lở loét nên được người thân đưa đến bệnh viện nạo phần thịt hoại tử, truyền kháng sinh và dùng thuốc theo hướng dẫn của bác sĩ.
Cũng như anh Thành, ông Nguyễn T. (trú TP. Nha Trang, Khánh Hòa) bị tai nạn, rách da phần bắp tay phải nhưng chỉ ở nhà đắp lá cây. Sau một thời gian, vết thương của ông T. ngày càng đau nhức. Khi đến BVĐK tỉnh Khánh Hòa khám, vết thương ông T. đã nhiễm trùng nặng, bắt đầu hoại tử, chảy dịch mùi hôi. Các bác sĩ phải cắt phần hoại tử, sử dụng các loại kháng sinh theo phác đồ điều trị cho ông T.
Nhiều người bị hoại tử vết thương ở tay hoặc chân do đắp lá cây phải đến BVĐK Khánh Hòa điều trị
Ngày 28/10, BSCKII. Phạm Đình Thành- Trưởng khoa Ngoại Chấn thương-Chỉnh hình tổng quát (BVĐK tỉnh Khánh Hòa) thông tin, từ đầu năm đến nay, trung bình mỗi tháng, khoa tiếp nhận khoảng 6 – 8 trường hợp nhập viện do nhiễm trùng vết thương vì đắp lá cây. Hầu hết các trường hợp đến viện đều đã điều trị bằng lá cây một thời gian dài, chỉ khi bệnh nặng đến rất nặng mới nhập viện nên công tác cứu chữa của bác sĩ gặp nhiều khó khăn.
Điển hình như mới đây, bệnh nhân T.T.T (nữ, 71 tuổi, trú Vạn Phú, Vạn Ninh, Khánh Hòa) nhập viện trong tình trạng vùng gối, cẳng chân trái xuất hiện nhiều mảng bầm tím, sưng phù và rỉ dịch mùi hôi. Bệnh nhân T.T. cho biết, trước đó, bà đau nhức xương khớp và tự ý sử dụng lá cây không rõ loại lá gì đắp lên vùng gối, cẳng chân trái.
Vì vết thương của bệnh nhân T. hoại tử nặng nên các bác sĩ tiến hành mổ cấp cứu, cắt lọc và súc rửa từ gối đến hết cẳng chân trái cho bệnh nhân.
Bác sĩ khuyến cáo
Video đang HOT
Bệnh nhân T.T.T (71 tuổi, Vạn Ninh, Khánh Hòa) nhập viện trong tình trạng vùng gối, cẳng chân xuất hiện nhiều mảng bầm tím, hoại tử vì đắp lá
BSCKII. Phạm Đình Thành cho biết: “Người dân đắp lá cây không rõ nguồn gốc ở vết thương dễ gây nhiều biến chứng và hậu quả khó lường, nhất là những người có sẵn bệnh mạn tính như đái tháo đường, thận. Đối với các trường hợp bị biến chứng nhẹ, nhập viện sớm, chúng tôi có thể xử lý bảo toàn được các chi cho bệnh nhân. Trường hợp nặng thì phải phẫu thuật cắt bỏ chi”.
“Khi bị chấn thương hoặc có vết lở, người dân tuyệt đối không nên đắp lá cây hoặc bôi dầu nóng… vì sẽ làm nóng vùng bị tổn thương, gây chảy máu mạnh hơn, dẫn tới nguy cơ teo cứng khớp, viêm khớp, hoại tử, nặng hơn là suy đa tạng… Tốt nhất, khi bị chấn thương nên chườm lạnh, kê cao chân và đến khám ở bác sĩ chuyên khoa để được điều trị đúng, không để xảy ra hậu quả đáng tiếc. Bệnh nhân hãy tỉnh táo để được bác sĩ tư vấn, điều trị tốt nhất, tránh “nghe người ta nói ” để gánh hậu quả đáng tiếc”, BSCKII. Phạm Đình Thành khuyến cáo.
Áp xe phổi: Nguyên nhân, biểu hiện, cách điều trị và phòng bệnh
Áp xe phổi là tình trạng hoại tử nhu mô phổi do nhiễm trùng, tạo thành các hang trong phổi chứa tổ chức hoại tử và có thể có cả dịch ở bên trong.
Các biến chứng của áp xe phổi là giãn phế quản, viêm màng não... có thể đe dọa đến tính mạng.
1. Nguyên nhân gây áp xe phổi
Áp xe phổi có thể chỉ có 1 ổ hoặc thậm chí nhiều ổ (áp xe đa ổ). Nguyên nhân hay gặp của áp xe phổi là do hít sặc vào phổi các chất tiết vùng miệng họng, kết hợp với viêm lợi hoặc vệ sinh răng miệng kém, thường do các vi khuẩn vùng miệng họng.
Ngoài ra, vi khuẩn gây áp xe phổi có thể đến theo đường máu từ một ổ viêm nội tâm mạc bên tim phải, căn nguyên thường do vi khuẩn tụ cầu.
Hệ hô hấp tiếp xúc trực tiếp với môi trường bên ngoài nên rất dễ bị nhiễm khuẩn, tuy nhiên phổi nằm sâu nên nguy cơ nhiễm khuẩn thấp hơn, hơn nữa cơ thể có cơ chế bảo vệ phổi khá tốt.
Bình thường nếu cơ chế này hoạt động tốt, vi khuẩn và tác nhân gây bệnh khác sẽ được loại bỏ trước khi gây viêm phổi nặng và xuất hiện áp xe.
Các nguyên nhân khiến cơ chế bảo vệ phổi giảm sút có thể kể đến như: Thuốc lá, rượu, tình trạng suy giảm miễn dịch, bệnh lý nghề nghiệp, suy dinh dưỡng, độc tính vi khuẩn hoặc thực phẩm, một số thuốc điều trị...
Áp xe phổi nếu được chẩn đoán và điều trị muộn thì nguy cơ biến chứng và tiên lượng điều trị sẽ khó khăn.
2. Dấu hiệu áp xe phổi
Bệnh thường tiến triển âm thầm, sau nhiều tuần, thậm chí nhiều tháng, các triệu chứng có thể không điển hình, bao gồm: ho có đờm, sốt, mồ hôi đêm, sụt cân; đôi khi bệnh nhân đến khám vì ho ra máu, đau ngực, ho đờm đục, hoặc đờm có dây máu và có mùi hôi, kèm theo hơi thở hôi.
Giai đoạn ổ mủ kín bệnh cảnh lâm sàng giống viêm phổi cấp.
Giai đoạn ộc mủ: Sau 6 - 15 ngày bệnh nhân đột ngột ho tăng lên, đau tăng lên. Ho dữ dội và ộc ra rất nhiều mủ (hàng trăm ml), mủ đặc quánh màu vàng hoặc nhầy màu vàng, lổn nhổn những cục mủ tròn mùi hôi thối. Vã mồ hôi, mệt lả. Sau đó hết sốt, dễ chịu, ăn ngủ được. Giai đoạn ộc mủ cần đề phòng mủ tràn vào đường thở gây ngạt thở.
Có thể ho ra máu hoặc khạc ra ít mủ nhiều lần trong ngày (khái mủ). Quan sát đại thể mủ khạc ra để sơ bộ có chẩn đoán nguyên nhân: mủ màu vàng thường do tụ cầu; mủ màu xanh do liên cầu; mủ màu Socola do amip; mủ thối và có những cục hoại tử đen do vi khuẩn kỵ khí.
Giai đoạn ổ mủ thông với phế quản: Bệnh nhân vẫn ho dai dẳng, nhất là khi thay đổi tư thế và khạc mủ số lượng ít hơn.
Khám phổi thường biểu hiện không đặc hiệu, có thể biểu hiện giống như đông đặc phổi, hoặc viêm phổi; Chụp phim X-quang phổi, hoặc phim cắt lớp vi tính sẽ giúp định hướng chẩn đoán.
Áp xe phổi là tình trạng hoại tử nhu mô phổi do căn nguyên nhiễm trùng.
3. Áp xe phổi có lây không?
Bệnh áp xe phổi là một căn bệnh thường bắt nguồn từ các loại vi khuẩn, chính vì vậy mà nguy cơ lây lan bệnh có thể xảy ra dễ dàng, đặc biệt là thông qua đường hô hấp. Người bệnh có thể bị áp xe phổi thông qua việc hít phải các vi khuẩn từ không khí vào cơ thể hoặc từ những tiếp xúc tới tai mũi họng do thủ thuật phẫu thuật, các chất tiết nhiễm trùng từ răng miệng và mũi họng, phẫu thuật đặt nội khí quản, có dị vật trong đường thở hoặc bị trào ngược dạ dày...
Bên cạnh đó, bệnh áp xe phổi cũng có thể bị lây truyền thông qua đường máu (viêm tĩnh mạch, nhồi máu, viêm nội tâm mạc, nhiễm trùng huyết...) hoặc thông qua đường kế cận (các áp xe ở gan, cơ hoành, đường mật, thực quản... phát triển đến mức vỡ ra sẽ lây lan tới phổi).
4. Cách phòng áp xe phổi
Mỗi cá nhân nên tự ý thức được mức độ nghiêm trọng của bệnh áp xe phổi và thực hiện các biện pháp sau nhằm phòng ngừa cũng như giảm thiểu nguy cơ mắc bệnh:
Luôn giữ răng miệng cũng như tai mũi họng sạch sẽ tránh vi khuẩn xâm nhập vào cơ thể.
Nên chữa trị dứt điểm các bệnh lý có liên quan đến đường hô hấp (tai mũi họng hay răng miệng).
Cung cấp đầy đủ dinh dưỡng để có một sức khỏe tốt, chống chọi được các loại vi khuẩn virus gây hại cho cơ thể. Đồng thời cũng nên tạo thói quen tập luyện thể dục thể thao để nâng cao sức đề kháng.
Chú ý không để các dị vật rơi vào cổ, vì hệ hô hấp sẽ có nguy cơ bị nhiễm khuẩn.
Lập tức liên hệ với các y bác sĩ có chuyên môn để trợ giúp khi có những dấu hiệu bất thường do áp xe phổi gây ra.
5. Cách điều trị áp xe phổi
Điều trị áp xe phổi cần sự phối hợp của nhiều biện pháp, phương pháp điều trị bệnh cụ thể như sau:
Điều trị nội khoa bằng thuốc kháng sinh. Dẫn lưu ổ áp xe bằng cách dẫn lưu tư thế vỗ rung lồng ngực, hút mủ ở phế quản, dẫn lưu ổ áp xe bằng phương pháp nội soi phế quản ống mềm. Phương pháp nội soi phế quản còn giúp phát hiện các tổn thương làm tắc nghẽn phế quản hoặc gắp bỏ dị vật trong phế quản nếu có...
Điều trị phẫu thuật: Khoảng 10% trong số tổng các ca áp xe phổi được bác sĩ chỉ định thực hiện can thiệp ngoại khoa. Chủ yếu là tiến hành phẫu thuật để cắt phân thùy phổi hoặc cắt 1 bên phổi tùy vào mức độ tổn thương.
Điều trị hỗ trợ, áp dụng chế độ ăn uống, nghỉ ngơi khoa học: Cung cấp đầy đủ chất dinh dưỡng và năng lượng cho cơ thể người bệnh, đặc biệt là bổ sung thêm protein và vitamin. Bổ sung nước đầy đủ, duy trì cân bằng nước và điện giải, cân bằng toan kiềm. Giảm các triệu chứng đau, sốt của bệnh.
Nếu cần thiết nên sử dụng liệu pháp thở oxy nhằm hỗ trợ hô hấp cho người bệnh. Nếu là suy hô hấp cấp thì cung lượng khoảng 6 lít/phút, còn suy hô hấp mạn thì thở oxy với cung lượng thấp hơn, khoảng 2 lít/phút.
Nguy cơ cắt cụt chân do không tuân thủ điều trị đái tháo đường Tổn thương loét bàn chân là một biến chứng mạn tính thường gặp và gây nguy hiểm cho bệnh nhân đái tháo đường. Đa số bệnh nhân đái tháo đường bị cắt cụt chân khởi đầu chỉ có một vết loét hoặc vết rách ngoài da, nhưng không được điều trị kịp thời, đúng cách nên bị nhiễm trùng nặng và lan rộng......