Nhân viên ngân hàng: Nghề nguy hiểm
Mới nhìn qua những không gian văn phòng sáng choang, hiện đại, những nhân viên ăn mặc lịch sự, nói năng nhỏ nhẹ, người ngoài chắc sẽ lầm tưởng làm việc ở lĩnh vực tài chính – ngân hàng là một nghề “sang chảnh”. Nhưng với những người trong cuộc, áp lực là cực lớn, thậm chí có những vị trí, rủi ro luôn thường trực.
“Ghế nóng” lãnh đạo
Chuyện lãnh đạo ngân hàng vướng vòng lao lý vì vi phạm pháp luật hay lãnh đạo ngân hàng phải từ nhiệm vì triết lý kinh doanh không phù hợp hay những lý do khách quan hoặc chủ quan khác là hai câu chuyện khác nhau. Nhưng nhìn từ góc độ nghề nghiệp thì thấy một điểm chung là họ cùng lao động trong một nghề có thể gọi là “nghề nguy hiểm”.
Nguy hiểm ở đây không phải chỉ với bản thân lãnh đạo ngân hàng mà nguy hiểm hơn là hậu quả nếu họ gây ra, trên chiếc ghế lãnh đạo của mình, cho tổ chức mà họ đang chèo lái, cho hệ thống và cho xã hội là khó lường. Bởi ở cương vị lãnh đạo, người chèo lái ngân hàng, nếu tài năng, bản lĩnh của họ không đủ để tạo dựng uy tín, thương hiệu cho ngân hàng, không thúc đẩy sự phát triển của ngân hàng thì không chỉ mình họ mà hàng trăm, hàng ngàn nhân viên và đặc biệt là hàng loạt khách hàng có thể bị liên lụy.
Có thể thấy rằng, thời gian qua, nhiều sai phạm trong ngành ngân hàng được phanh phui, xử lý. Có thể có yếu tố chủ quan của những sai lầm, vi phạm trong một thời gian dài. Nhưng cũng có một điều rất quan trọng theo giới chuyên gia là có một phần do hệ thống luật pháp liên quan đến hoạt động ngân hàng ở nước ta chưa thực sự chặt chẽ, rồi cả sự am hiểu luật pháp của công dân còn hạn chế.
Trong bối cảnh đó, với cuộc chơi khắc nghiệt của ngành ngân hàng, có thể không tránh khỏi ai đó vì “lách luật” mà… dẫn đến phạm luật. Trong khi đó, bản thân các CEO ngân hàng là người đi làm thuê nên phải chấp nhận cuộc chơi khắc nghiệt nếu không muốn ra đi, nếu làm giỏi thì được khen, còn chưa giỏi thì bị chê, thậm chí bị mắng nhiếc…
Trong thời điểm khá nhạy cảm hiện nay, nhiều vụ lùm xùm, vi phạm pháp luật liên quan đến hoạt động của nhiều ngân hàng liên tục được cơ quan thực thi pháp luật phanh phui, xử lý; rồi mùa đại hội đồng cổ đông, chia cổ tức, chuyện nhân sự người ở người đi… với những buồn vui lẫn lộn; và cả câu chuyện mua bán, sáp nhập, thâu tóm ngân hàng liên tục diễn ra với không ít lo toan…, hẳn là không ít lãnh đạo ngân hàng đang như ngồi trên đống lửa. Nhiều người cho rằng, họ đang làm “nghề nguy hiểm”, kể cũng không ngoa.
Bởi ở các nền kinh tế thị trường phát triển, nghề ngân hàng được xem như nghề của tầng lớp trung lưu. Nhưng cũng thẳng thắn nhìn nhận thực tại ở Việt Nam khi soi vào các đại án ngân hàng đang được xét xử mới thấy nghề ngân hàng đòi hỏi những chuẩn mực vô cùng khắt khe về kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức, cái tâm với nghề và cả sự khéo léo để vượt qua những cạm bẫy tinh vi, đôi khi là viên đạn bọc đường.
Đặc biệt là trước thực trạng nợ xấu tăng, kinh doanh lĩnh vực ngân hàng đối mặt không ít thách thức và đòi hỏi vai trò người lãnh đạo cấp cao – CEO luôn biết nắm bắt cơ hội mới có thể kỳ vọng lợi nhuận cao như yêu cầu của các ông chủ. Tuy nhiên, nếu không cẩn trọng, chính sự “nhanh nhạy” nắm bắt cơ hội lại chính là nguồn cơn tạo nên “mối họa” cho người ngồi “ghế nóng”.
Để được ngồi vào ghế thuyền trưởng một tổ chức lớn như ngân hàng đã là điều không dễ. Nó đòi hỏi khả năng lãnh đạo, tính quyết đoán có phần mạo hiểm và không loại trừ đôi khi phải chấp nhận phần nào rủi ro khi đặt bút ký hợp đồng tín dụng.
Là một trong những ngành từng được xem có lợi nhuận “khủng” trong kinh doanh tiền, vai trò điều hành của CEO ở các ngân hàng cũng là những hạt nhân không dễ tìm kiếm. Tất nhiên, đánh đổi với những mạo hiểm, công sức đó là mức lương thưởng, thù lao “khủng”, thậm chí cả lượng cổ phiếu thưởng không nhỏ. Bởi các ông chủ luôn biết “vàng thau” để đưa ra mức đãi ngộ hấp dẫn nhằm giữ chân nhân sự lãnh đạo.
Tâm sự được chia sẻ từ một cựu CEO ngân hàng cho biết, mức thu nhập hàng tháng của ông phải tính bằng con số hàng trăm triệu đồng, chưa kể đến các chính sách, chế độ khích lệ khác khi vượt chỉ tiêu kinh doanh. Tuy nhiên, với ông, đó thực sự là “ghế nóng” bởi sự lao tâm khổ tứ và không lúc nào vơi nỗi lo về những rủi ro chủ quan và cả khách quan ập đến.
Đó là những áp lực lớn từ phía cổ đông, HĐQT về hiệu quả hoạt động, về các con số chỉ tiêu doanh thu, lợi nhuận… Bên cạnh đó, áp lực từ phía tập thể hàng ngàn người lao động về môi trường hoạt động và thu nhập của họ. Nếu không nhận được sự ủng hộ và tôn trọng từ phía cán bộ, nhân viên thì một mình CEO sẽ không quản lý tốt được khối tài sản lớn của ngân hàng.
Video đang HOT
Đồng thời, áp lực từ cơ quan quản lý và hệ thống chính sách: các CEO phải đảm bảo ngân hàng hoạt động phù hợp với các chủ trương, chính sách của cơ quan quản lý và các quy định của pháp luật có liên quan.
Cuối cùng là áp lực từ khách hàng: CEO phải có trách nhiệm đối với tiền gửi, tài sản gửi của hàng vạn người dân và doanh nghiệp, CEO phải có trách nhiệm đối với việc kiểm soát, giám sát các khoản nợ đã cho vay đến hàng vạn khách hàng…
Không chỉ những bất cẩn, những bước vượt rào quy định, mà dù có cẩn trọng đến đâu, kiểm soát chặt chất lượng tín dụng đến cỡ nào, người chèo lái ngân hàng còn phải luôn tính đến những biến số tác động từ kinh tế vĩ mô và chính sách không ổn định… Nợ xấu tăng là nỗi ám ảnh của ngân hàng nói chung, song “gánh nặng” đè lên vai người lãnh đạo ngày một lớn, nếu những khoản nợ xấu “khổng lồ” đó không được kiểm soát, xử lý… khi khách hàng rơi vào tình trạng khó khăn.
Chẳng hạn gần đây, nhiều khoản nợ vay phát triển dự án bất động sản có nguy cơ hoặc đã biến thành nợ xấu khi dự án không thể triển khai do động thái siết cấp phép của nhà quản lý. Các CEO ngân hàng thậm chí lo chẳng kém gì ông chủ dự án.
Qua cuộc “đại phẫu” của ngành ngân hàng 6 năm đã lộ ra yếu kém của không ít nhà băng trong quản trị điều hành và điều này thường được quy trách nhiệm cho các CEO. Thậm chí, sự “ sa sẩy” khi chèo lái con thuyền có thể đẩy các CEO ra trước vành móng ngựa. DongA Bank là một điển hình và cái kết án tù chung thân cho ông Trần Phương Bình, Tổng giám đốc Ngân hàng là bài học còn nóng hổi.
Đến những cái ghế “dễ thay chủ” của nhân viên
Nếu chức vụ CEO ngân hàng được xem là “ghế nóng” thì với nhiều mảng hoạt động ngân hàng, vị trí của người phụ trách lại là chiếc ghế dễ thay chủ nhất vì nhân sự thay đổi thường xuyên. Chẳng hạn, thời gian vừa qua, thị trường xôn xao trước việc có ngân hàng chấm dứt hợp đồng với cả trăm nhân viên của cùng một bộ phận để phục vụ cho công việc tái cơ cấu.
Từng được mặc định là một công việc đáng mơ ước với mức lương, thưởng cao ngất và “đóng đô” trong những văn phòng hạng sang, nhưng trên thực tế, nhân viên ngân hàng, đặc biệt là nhân viên tín dụng luôn phải đối mặt với sức ép công việc nặng nề, bên cạnh những rủi ro mất việc, đền tiền, thậm chí là phải hầu tòa khi có “sự cố”… Tuy nhiên, không chỉ có tín dụng mà các vị trí giao dịch viên, huy động tiền gửi cũng áp lực không kém.
Trao đổi với các nhân sự trong ngành ngân hàng, họ luôn cho rằng ngân hàng là nghề kinh doanh trên rủi ro. Khi các vụ đại án ngân hàng lần lượt được đưa ra xét xử, từ vụ án ông Hà Văn Thắm, Phạm Công Danh, Trần Phương Bình hay vụ bầu Kiên… cũng như nhiều cán bộ cấp cao ngân hàng khác, mới thấy nghề ngân hàng rất cần sự khôn khéo, nhạy cảm để có thể từ chối những cạm bẫy ẩn dưới những cơ hội hấp dẫn.
Trên thực tế, các ngân hàng thương mại với vai trò trung gian huy động nguồn vốn tạm nhàn rỗi từ doanh nghiệp, người dân trong nền kinh tế để cho vay với khách hàng thiếu vốn. Đó là loại hình doanh nghiệp đặc biệt, với chỉ 1 đồng vốn vốn tự có và được đi huy động vốn gấp đến 18-20 lần, cũng vì thế lợi ích của người gửi tiền luôn được pháp luật bảo vệ hàng đầu.
Luật pháp có những quy định rất ngặt nghèo đối với hành vi huy động vốn từ người gửi tiền để cho vay các doanh nghiệp sân sau hay cho vay tập trung quá mức vào ngành có độ rủi ro cao. Nếu bước qua những “lằn ranh” này, nguy cơ tạo ra những lỗ hổng trong chính tổ chức của mình, qua đó tạo ra những bất ổn hệ thống và khả năng đối mặt với vòng lao lý là nhãn tiền.
Ra quyết định cấp vốn và chịu trách nhiệm với điều đó là việc của những người lãnh đạo. Nhưng trong hoạt động ngân hàng, những công việc được cho là thuần túy nghiệp vụ như thủ quỹ, kiểm ngân, giao dịch viên… cũng không đơn giản chỉ là công việc đếm tiền, đóng gói, nhận tiền, chi trả tiền mặt, rồi đi nạp tiền ATM không có rủi ro gì.
Chỉ một phút bất cẩn để tiền giả, séc du lịch giả lọt qua, họ sẽ phải chịu trách nhiệm; thiếu hụt, chênh lệch quỹ một đồng cũng phải tìm bằng xong; hay chỉ đơn giản là để tồn quỹ cuối ngày quá cao gây lãng phí vốn cũng bị trừ điểm, trừ lương…
Đọc đến đây, hẳn nhiều người cho rằng, nghề ngân hàng chỗ nào cũng có rủi ro, không rủi ro tín dụng thì rủi ro vận hành. Nhưng sao trừ những lúc khủng hoảng, suy thoái, nhân sự ngân hàng vẫn là nghề “hot” thu hút rất nhiều người, các trường, khoa tài chính – ngân hàng lúc nào cũng “dư dả” ứng viên?
Theo dự báo của Tổ chức Lao động Quốc tế (ILO), đến năm 2020, hệ thống ngân hàng Việt Nam sẽ sở hữu khoảng 300.000 nhân sự. Và thực tế, nghề ngân hàng nếu ai đã thực sự “bén duyên” sẽ thấy rất hấp dẫn. Nếu có đủ năng lực, có tâm trong sáng, không tư lợi cá nhân, không lợi dụng vị trí đặt điều kiện riêng cho mình, thì những rủi ro sẽ được giảm thiểu. Bởi với những chuẩn mực mới trong quản trị ngân hàng, quản trị rủi ro được áp dụng, sẽ có rất nhiều tầng nấc kiểm soát để phòng ngừa các sai lầm, bất cẩn.
Đối với vị trí lãnh đạo, chia sẻ với phóng viên Đặc san Toàn cảnh ngân hàng, phó tổng giám đốc tín dụng doanh nghiệp của một ngân hàng lớn cho rằng, áp lực trong hoạt động ngân hàng là luôn có, nhưng thực tế trong cuộc sống, lĩnh vực nào chẳng đầy rẫy áp lực. Điều quan trọng là cần đặt ra những mục tiêu dài hạn, ngắn hạn để không bị rối trí khi xuất hiện những biến động, những áp lực nhất thời.
“Khi xảy ra sự cố, chẳng hạn xuất hiện khoản nợ lớn có nguy cơ mất vốn, hoặc những báo cáo bi đát về tình hình kinh doanh ở một khu vực hay toàn ngân hàng, phản ứng đầu tiên là nỗi sợ hãi, lo lắng. Nhưng phải hiểu rằng, những nhân viên xung quanh cũng lo lắng không kém và họ đang chờ đợi phản ứng của người lãnh đạo để hành xử.
Chính vì vậy, trước hết, người lãnh đạo phải biết chuyển sự sợ hãi của đồng nghiệp sang cho mình để đồng nghiệp có thể bình tĩnh hơn giải quyết công việc. Sau đó, mới tìm cách giảm thiểu tối đa sự sợ hãi bên trong cá nhân, từ đó chia nhỏ sự sợ hãi và vượt qua từng sự sợ hãi nhỏ đó thì dần dần sự sợ hãi lớn sẽ đi qua”, vị lãnh đạo trên chia sẻ và nói rằng, nếu nói nghề ngân hàng là nghề nguy hiểm cũng không sai, nhưng đó là sự nguy hiểm đầy hấp dẫn.
Phương Linh
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
Siết tín dụng tiêu dùng: Khó đẩy lùi tín dụng đen
Chủ trương và mục tiêu đưa ra hiện nay là phát triển hoạt động tín dụng chính thức xuống vùng sâu, vùng xa để giúp người dân hạn chế tiếp cận tín dụng phi chính thức. Vì vậy, khi điều chỉnh các chính sách cho vay với lĩnh vực tiêu dùng cũng cần hài hòa các mục tiêu vừa kiểm soát được hoạt động cho vay, vừa đảm bảo sát thực tiễn mới hy vọng mang lại lợi ích cả về kinh tế và hiệu quả xã hội.
Bóng ma tín dụng "đen" đang bủa vây nhiều người nghèo, nhất là ở khu vực xa xôi
Tín dụng "đen" có cơ hội bùng phát trở lại
Dự thảo thông tư sửa đổi Thông tư số 43/2016/TT-NHNN quy định về cho vay tiêu dùng của công ty tài chính (CTTC) có một số nội dung đáng lưu ý và được cho là có xu hướng siết chặt hoạt động của CTTC. Điều này cũng có nghĩa sẽ làm ảnh hưởng đến khả năng tiếp cận nguồn vốn chính thức của người dân, càng tạo điều kiện cho tín dụng "đen" phát triển.
Theo đó, dự thảo quy định CTTC chỉ được giải ngân trực tiếp cho khách hàng đã và đang vay tại CTTC đó, được đánh giá có lịch sử trả nợ tốt theo quy định nội bộ của CTTC và không có nợ xấu theo kết quả phân loại nhóm nợ của Trung tâm thông tin tín dụng quốc gia Việt Nam đến thời điểm gần nhất tính từ thời điểm ký kết hợp đồng cho vay tiêu dùng.
TS. Cao Sỹ Kiêm
Đồng thời, CTTC phải đảm bảo tổng dư nợ cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay (cho vay tiền mặt) không vượt quá 30% tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng của CTTC. Lý do là vì theo NHNN, cho vay giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay có rủi ro cao, khó kiểm soát mục đích sử dụng vốn vay, nên cần hướng đến khách hàng đã vay tại công ty tài chính và có lịch sử trả nợ tốt.
Cho đến hiện tại, vẫn chưa có thông tin cụ thể về thời điểm dự thảo thông tư sẽ được ban hành và có hiệu lực. Tuy nhiên, nếu dự thảo với các điều khoản giữ nguyên được thông qua thì ngành cho vay tiêu dùng sẽ gặp nhiều khó khăn, giảm hiệu quả của chính sách "sử dụng tín dụng tiêu dùng chính thức để đẩy lùi tín dụng đen".
Quả thực, những thay đổi theo chiều hướng trên có thể cản trở mục tiêu dùng tín dụng chính thức để đẩy lùi tín dụng "đen" mà chính NHNN đang nỗ lực thúc đẩy, thông qua những giải pháp mà một trong số đó chính là việc thúc đẩy cho vay tiêu dùng của CTTC, nhằm đẩy mạnh cho vay tiêu dùng tại các vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa.
Bởi thực tế, những người vướng vào tín dụng "đen" thường là người có nhu cầu vay tiền mặt ngay, chứ không phải là người vay tiền để mua hàng hóa và dịch vụ, nên nếu siết lại việc cho vay giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay của CTTC thì người dân càng buộc phải tìm đến tín dụng "đen" để giải quyết nhu cầu vay nóng cấp bách của họ.
Như vậy, siết việc cho vay tiêu dùng của các CTTC thì chủ trương chống tín dụng "đen" sẽ càng khó thành hiện thực, vì chúng ta đã tự hạn chế sự phát triển của một công cụ quan trọng để chống tín dụng "đen", trong khi chỉ còn công cụ đáng kể khác là tín dụng ngân hàng.
Ngoài ra, điểm đáng chú ý khác đó chính là quy định chỉ được giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay đối với khách hàng đã và đang vay tại CTTC đó, được đánh giá có lịch sử trả nợ tốt theo quy định nội bộ của CTTC và không có nợ xấu có thể hạn chế hơn nữa vai trò của CTTC trong việc chống tín dụng "đen" như chủ trương trên.
Thực tế, những người phải tìm đến tín dụng "đen" thường là những người không thể tiếp cận được ngân hàng hay thậm chí là CTTC. Nếu NHNN buộc CTTC loại bỏ những đối tượng vay tiềm năng này thì rõ ràng họ chỉ còn cách tiếp cận tín dụng "đen".
Nếu khống chế CTTC cho vay tiền mặt?
Xét ở góc độ mục đích sửa đổi Thông tư, những điểm mới trong dự thảo này mang ý nghĩa hạn chế giải ngân bằng tiền mặt nhằm giảm rủi ro cho tổ chức tín dụng, cho CTTC, đồng thời cũng hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế.
Quy định này hỗ trợ việc quản lý rủi ro tín dụng trên toàn lãnh thổ và trên toàn hệ thống cho vay tín dụng. Tuy nhiên, dù những điểm này được đề xuất nhằm mục đích tốt nhưng lại không hợp lý. Khi khách hàng đến vay, CTTC đã xét khả năng trả nợ, đồng thời kiểm tra đến việc người vay dùng số tiền này để làm gì. Khi CTTC thỏa mãn các yêu cầu đó và thấy người này không có nợ xấu, có khả năng trả nợ thì theo quy định của dự thảo, các CTTC có thể giải ngân trực tiếp bằng tiền mặt không quá 30% tổng dư nợ.
Việc hạn chế giải ngân bằng tiền mặt sẽ không hỗ trợ tín dụng tiêu dùng, trong khi đó nền kinh tế Việt Nam đang cần "sự chống đỡ" từ sự phát triển của tiêu dùng. Một số nhu cầu về tiêu dùng phải để cho khách hàng tùy chọn cách sử dụng. Nếu giới hạn tổng dư nợ cho vay tiêu dùng giải ngân trực tiếp cho khách hàng vay (giải ngân tiền mặt) không vượt quá 30% tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng của CTTC sẽ không phù hợp.
Nếu CTTC bị khống chế 30% giải ngân tiền mặt nên không thể giải ngân được thì có thể họ sẽ đẩy các khách hàng này vào trường hợp đi vay tín dụng "đen" để phục vụ cho chi phí, nhu cầu nóng. Chính vì thế, việc giới hạn giải ngân về tiền mặt sẽ không hỗ trợ giải quyết tín dụng "đen" nếu chúng ta có trần khống chế 30%.
Thực tế hiện nay, dư nợ giải ngân trực tiếp bằng tiền mặt cũng chiếm phần lớn trong tổng dư nợ cho vay tiêu dùng của các CTTC. Như vậy, nếu quy định mới theo dự thảo được thông qua, ngành cho vay tiêu dùng sẽ chứng kiến một sự giảm tốc rõ rệt, nhất là những công ty tập trung cao vào cho vay tiền mặt với khách hàng cá nhân.
Trong khi đó, ở bất cứ trường hợp nào, các tổ chức cung ứng vốn cũng phải xét đến chuyện người vay có khả năng trả nợ hay không, kiểm tra việc người vay dùng số tiền này để làm gì. Muốn tín dụng tiêu dùng góp phần giảm thiểu tín dụng "đen" thì hơn ai hết là các tổ chức tín dụng, CTTC phải đẩy mạnh tín dụng tiêu dùng.
NHNN, Chính phủ nên khuyến khích các CTTC mở rộng đối tượng cho vay, mở rộng quy trình vay, xét cho vay một cách nhanh chóng, thuận tiện hơn, tất nhiên cũng phải trong khuôn khổ luật pháp, khuôn khổ quản trị rủi ro của các doanh nghiệp.
Kiểm soát tín dụng tiêu dùng để hạn chế rủi ro là cần thiết, trong dự thảo cũng có rất nhiều điểm tiến bộ, khả thi và phù hợp với tình hình thực tiễn, thể hiện sự quan tâm của NHNN đối với lĩnh vực cho vay tiêu dùng nói chung và hoạt động của CTTC nói riêng.
Xét ở góc độ mục đích sửa đổi Thông tư, những điểm mới trong dự thảo này mang ý nghĩa hạn chế giải ngân bằng tiền mặt nhằm giảm rủi ro cho tổ chức tín dụng, cho CTTC, đồng thời cũng hạn chế việc sử dụng tiền mặt trong nền kinh tế.
Tuy nhiên, cũng không nên chỉ vì mục đích một nền kinh tế phi tiền mặt mà hạn chế tín dụng tiêu dùng, tạo cơ hội cho tín dụng "đen" bùng phát trở lại. Mặt khác, chúng ta biết rằng, trong một nền kinh tế, GDP chịu tác động tích cực bởi chỉ số tiêu dùng, nếu cho vay tiêu dùng phát triển, sẽ hỗ trợ đắc lực cho phát triển nền kinh tế qua sức cầu tiêu dùng hàng hóa tăng lên.
Theo tinnhanhchungkhoan.vn
ACB dự kiến thu về khoảng 100 tỷ nhờ bán hơn 6 triệu cổ phiếu quỹ Hơn 6 triệu cổ phiếu quỹ sẽ được ACB bán ra để làm cổ phiếu thưởng, phân phối cho người lao động. Ngày 24/5, Ngân hàng TMCP Á Châu (HNX: ACB) cho biết đã thông qua phương án bán cổ phiếu quỹ để làm cổ phiếu thưởng, phân phối cho người lao động. Cụ thể, theo phương án này, tổng số lượng cổ...