Nhân vật được Liên Xô bảo vệ như ‘bí mật quốc gia’: Chỉ khi chết mới tiết lộ danh tính, công trình của ông làm rung chuyển thế giới
Thành công của Liên Xô thời Chiến tranh Lạnh đến từ cách họ bảo mật thông tin rất chặt chẽ.
Liên Xô không có nhiều tiến bộ công nghệ tương tự như NASA nhưng điều đó không ngăn họ vượt lên trước người Mỹ trong hành trình du hành vào vũ trụ. Đây là cách họ đã làm.
Trong vòng vài ngày sau khi trở về Trái Đất, anh hùng Liên Xô Yuri Gagarin đã sát cánh cùng lãnh đạo Liên Xô Nikita Khrushchev tại Quảng trường Đỏ ở Moscow để công chúng hâm mộ chào đón và ăn mừng thành công của người đầu tiên bay ra ngoài không gian.
Trong không khí hào hùng dân tộc đó, không ai nhắc hoặc biết đến tên tổng công trình sư – người đã thiết kế nên con tàu vũ trụ không gian đầu tiên của loài người, đưa Yuri Gagarin bay vòng quanh Trái Đất trong 108 phút.
Chỉ đến khi ông qua đời năm 1966, tên tuổi của thiên tài vũ trụ đó mới được tiết lộ với thế giới. Thiên tài này là ‘trái tim’ của chương trình vũ trụ Liên Xô, là một nhân vật thuộc một trong những bí mật quốc gia được bảo vệ chặt chẽ nhất của Liên Xô. Sau khi mất, ông đã trở thành biểu tượng của tên lửa Liên Xô/Nga và cả thiết kế tên lửa, tàu vũ trụ của ông vẫn còn bay cho đến ngày nay.
Ông là Sergei Pavlovich Korolev – Cha đẻ của chương trình vũ trụ Liên Xô.
Sergei Korolev là con trai của một giáo viên dạy văn học người Nga, ông sinh ngày 12/1/1907 tại Zhytomyr, Ukraine. Bị mê hoặc bởi máy bay, ông đã thiết kế chiếc tàu lượn đầu tiên của mình khi mới 17 tuổi. Sau khi tốt nghiệp Học viện Bách khoa Kiev, ông gia nhập Đại học Moscow và sở thích của ông chuyển sang động cơ đẩy tên lửa, lúc đó vẫn chỉ là một môn lý thuyết.
Sergei Korolev đã giám sát việc thiết kế hệ thống tên lửa R-7 khổng lồ [tên lửa xuyên lục địa đầu tiên trong lịch sử] để thực hiện các sứ mệnh phóng tiên phong của thế giới vào quỹ đạo, bao gồm: Vệ tinh nhân tạo đầu tiên (Sputnik 1), chú chó đầu tiên (Laika), người đàn ông đầu tiên (Yuri Gagarin), nữ phi hành gia đầu tiên (Valentina Tereshkova) và Người đầu tiên trong lịch sử đi bộ ngoài không gian (Alexei Leonov).
Sputnik 1 – vệ tinh đầu tiên được đưa lên quỹ đạo, tác phẩm của Sergei Korolev và đội ngũ của ông – được phóng vào ngày 4/10/1957 và tín hiệu ‘bíp bíp’ của nó đã làm rung chuyển thế giới.
Ông đã phát triển các vệ tinh nhân tạo, tàu vũ trụ, hệ thống điều khiển, tên lửa đẩy và đưa ra các bài kiểm tra nghiêm ngặt để đảm bảo rằng tất cả các phi hành gia du hành vũ trụ đều trở về sống sót (trong thời gian ông còn sống) cho Liên Xô.
Chỉ riêng giá trị tuyên truyền của tác phẩm của ông đã đủ để đảm bảo vị thế siêu cường vũ trụ của Liên Xô thời kỳ Chiến tranh Lạnh.
Nhưng, không giống như đối thủ người Mỹ gốc Đức Wernher von Braun – Cha đẻ của chương trình vũ trụ Mỹ – người được NASA ‘đánh bóng tên tuổi’ như một nhân vật nổi tiếng thế giới – thì Sergei Korolev trở về là một ‘thiên tài ẩn danh’, một nhân vật hoàn toàn ẩn trong bóng tối nhưng có thể quyết định những thời khắc huy hoàng của vũ trụ Liên Xô.
02. Sáng tạo kỹ thuật khó tin của Korolev
nstntin E. Tsiolkovsky (1857-1935, người Nga) – một trong những cha đẻ của ngành du hành vũ trụ hiện đại thế giới thế kỷ 19 – từng nhắc đến vai trò tối quan trọng của một phương tiện có thể nâng cánh tàu vũ trụ thoát khỏi lực hút Trái Đất, tiến thẳng lên quỹ đạo và đi vào không gian sâu – và đó chính là tên lửa đẩy.
Bước sang thế kỷ 20, Sergei Korolev – Cha đẻ của chương trình vũ trụ Liên Xô – không chỉ sáng tạo đột phá nên những hệ thống tên lửa đẩy tiên phong mà còn liên tục cải tiến; đồng thời phát minh ra phương tiện cho con người du hành không gian – hay còn gọi là tàu vũ trụ.
Sergei Korolev và đội ngũ kỹ sư của mình đã đưa ra các giải pháp kỹ thuật tuyệt vời cho những thách thức của con người khi bay vào vũ trụ, thường khác với những giải pháp mà Mỹ lựa chọn.
Đơn cử, tên lửa đẩy R-7 được thiết kế như một tên lửa đạn đạo xuyên lục địa. Cao khoảng 30 mét và với bốn tên lửa đẩy được gắn ở hai bên, kích thước của tên lửa này được xác định bởi khối lượng của đầu đạn hạt nhân mà nó mang theo. Vì vũ khí hạt nhân của Liên Xô to hơn và nặng hơn so với vũ khí của Mỹ nên tên lửa phải mạnh hơn. Điều này có nghĩa là khi phóng một tàu vũ trụ với một phi hành gia trên tàu, con số này cũng có thể lớn hơn.
Không giống như người Mỹ, Liên Xô không phải lo lắng về việc thực hiện những bước nhảy vọt trong việc thu nhỏ hay làm cho công nghệ trở nên nhỏ gọn hơn. “Ngành công nghiệp máy bay của Mỹ đã chuyển đổi từ ống chân không sang bóng bán dẫn, nhưng Liên Xô vẫn sử dụng ống chân không trong tàu vũ trụ của họ cho đến giữa những năm 1960″.
Thiết kế tàu vũ trụ Vostok
Video đang HOT
Nói về tàu vũ trụ Vostok (Phương Đông) của Liên Xô, đây sẽ là phương tiện chở người đàn ông đầu tiên và sau đó là người phụ nữ đầu tiên vào vũ trụ và nó rất khác biệt so với tàu vũ trụ Mercury của NASA.
Vostok giống một viên đạn thần công rỗng ruột khổng lồ được lót bằng đệm. Nguồn: Vladimir Gerdo / TASS / Getty Images.
Mô-đun Mercury hình nón được ‘nhồi nhét’ với các công tắc và mặt số, cần gạt và nút bấm. Đó là một kỳ quan của điện tử và thu nhỏ.
Trong khi đó, Vostok giống một viên đạn thần công rỗng ruột khổng lồ được lót bằng đệm. Có một chiếc radio với một phím điện báo để truyền mã morse làm dự phòng và một bảng điều khiển công cụ duy nhất. Các phi hành gia Mercury của Mỹ dự kiến sẽ lái tàu của họ. Vostok vận hành tự động theo một trình tự được xác định trước, khiến nhà du hành vũ trụ không phải làm quá nhiều việc.
Thiết kế kiểu súng thần công của tàu Vostok cũng giúp việc quay trở lại bầu khí quyển Trái Đất của phi hành gia trở nên đơn giản hơn. Các phi hành gia Mercury phải cẩn thận định hướng khoang chứa của họ cho tấm tản nhiệt để bảo vệ họ. Tuy nhiên, Vostok được bao phủ hoàn toàn bằng vật liệu chịu nhiệt và được đặt đơn giản ở phía dưới để nó quay về đúng hướng.
Nhưng tàu Vostok không thể phanh lại ở tốc độ lý tưởng khi hạ cánh xuống mặt đất. Đó là lý do vì sao Yuri Gagarin phải nhảy dù ở độ cao 6.000 mét, để con tàu rơi tách biệt ra.
Tàu vũ trụ thế hệ tiếp theo Voskhod
Đối với thế hệ tàu vũ trụ tiếp theo của mình, Voskhod, các kỹ sư của Sergei Korolev đã thiết kế một hệ thống hạ cánh ‘mềm’, bao gồm ghế bung cho các phi hành gia và một hệ thống tên lửa sẽ bắn ngay trước khi con tàu rơi xuống đất.
Tàu vũ trụ Soyuz ngày nay sử dụng công nghệ tương tự, mặc dù những người phi hành gia trong tàu vẫn ví việc trở về Trái Đất như một vụ tai nạn ô tô tốc độ cao.
Một cải tiến lớn khác với Voskhod là, mặc dù không lớn hơn Vostok nhưng để cạnh tranh với tàu vũ trụ Gemini hai người của Mỹ, nó cần phải chở nhiều hơn một phi hành gia. Thực tế là ba… và một trong số họ sẽ là kỹ sư đã giúp thiết kế nó.
Ý tưởng tuyển dụng kỹ sư, thay vì chỉ phi công, bay trong không gian là một trong những sáng tạo khác của Sergei Korolev. Nó đã không được Mỹ áp dụng cho đến kỷ nguyên của Tàu con thoi.
Người Liên Xô đã đưa ba người đàn ông bay vào không gian vào năm 1964 và người đầu tiên đi bộ trong không gian, Alexei Leonov, trong chuyến bay Voskhod-2 vào năm 1965.
Tuy nhiên, có lẽ phát minh ấn tượng nhất và được Liên Xô/Nga sử dụng lâu nhất của Sergei Korolev chính là tên lửa Soyuz.
Tàu vũ trụ Soyuz và tên lửa đẩy Soyuz – vẫn là ‘xương sống’ của chương trình vũ trụ Nga ngày nay.
Hệ thống tên lửa đẩy mà Nga sử dụng ngày nay gần như giống với tên lửa R-7 nguyên bản và mang đậm nét đơn giản trong thiết kế của Liên Xô. Đặc biệt là hệ thống đánh lửa của nó.
Với 5 động cơ tên lửa và 20 buồng đốt, cũng như 12 động cơ nhỏ hơn được sử dụng để lái, điều cần thiết là tất cả các động cơ đều sáng cùng một lúc. Nếu không, nhiên liệu có thể đổ ra khỏi động cơ không sáng và gây ra một vụ nổ thảm khốc.
Tính đồng bộ này đạt được bằng cách sử dụng các que diêm khổng lồ. Khi Soyuz ở trên giàn phóng của nó, các kỹ sư đặt các thanh gỗ bạch dương với hai thiết bị đánh lửa điện hình pháo hoa ở đầu vào vòi phun của tên lửa. Chúng được liên kết với nhau bằng dây đồng.
Ngay trước khi phóng, ngọn lửa bùng cháy và ngọn lửa cháy xuyên qua dây dẫn. Khi tất cả các dây bị cắt đứt, điều này có nghĩa là có ngọn lửa đang cháy trong mỗi vòi và có thể an toàn để mở các van đẩy. Hệ thống đảm bảo rằng nhiên liệu chỉ được giải phóng khi những que diêm khổng lồ này đều được thắp sáng.
03. Cái chết trên bàn mổ
Khi người Mỹ quyết tâm lên Mặt Trăng, Sergei Korolev cũng không đặt mình nằm ngoài cuộc đua lên vệ tinh Trái Đất. Ông ấp ủ chế tạo một tên lửa khổng lồ, N-1 cao 100 mét. Vì nhiều lý dó, dự án N-1 bị đóng băng cho tận năm 1964, thời điểm mà Mỹ đạt được nhiều thành tựu sẵn sàng cho Mặt Trăng.
Thật không may, Sergei Korolev chưa bao giờ nhìn thấy ‘đứa con tinh thần’ to lớn của mình hoàn thành. Năm 1965, ông được chẩn đoán mắc bệnh ung thư và được khuyên nên phẫu thuật ruột kết. Ca phẫu thuật khó thất bại. Sergei Korolev chết trên bàn mổ vào ngày 14/1/1966.
Chỉ 2 tuần sau cái chết của Sergei Korolev, tàu vũ trụ không người lái Luna 9 đã đáp xuống Mặt Trăng. Đây là con tàu vũ trụ lớn cuối cùng của Liên Xô ở trong không gian trong một thời gian dài.
Sau cái chết của Sergei Korolev, toàn bộ chương trình vũ trụ của Liên Xô trải qua muôn vàn khó khăn. Hệ thống tên lửa đẩy siêu nặng N-1 đã không sẵn sàng để đánh bại Apollo lên Mặt Trăng và 4 lần phóng của nó đều kết thúc trong thảm họa. Vào tháng 8/1974, Valentin Glushko, người đã tiếp quản phòng thiết kế của Sergei Korolev, buộc phải hủy bỏ chương trình.
Tàu vũ trụ Soyuz và tên lửa đẩy Soyuz – vẫn là ‘xương sống’ của chương trình vũ trụ Nga ngày nay và vẫn đang hoạt động hơn 40 năm sau khi nhà thiết kế của chúng qua đời. Với hơn 1.700 chuyến bay, dòng tên lửa Soyuz vẫn giữ kỷ lục về số lần phóng nhiều nhất và có thể sẽ tiếp tục làm việc trong vài thập kỷ nữa.
Ngôi nhà của Sergei Korolev ở Moscow – được nhà nước Liên Xô tặng (bí mật) cho ông vào năm 1959 – hiện được bảo tồn như một bảo tàng. Nơi này chứa đầy những vật lưu niệm của chương trình không gian do ông giám sát – mô hình máy bay và tên lửa, ảnh của các phi hành gia, sách kỹ thuật và giấy tờ.
Bên ngoài phòng làm việc của ông, một trong những bức tường của căn nhà được bao phủ bởi một bản đồ chi tiết về bề mặt Mặt Trăng.
Giấc mơ đưa một công dân Liên Xô lên Mặt trăng của Sergei Korolev không bao giờ thành hiện thực, nhưng các thiết kế của ông vẫn tồn tại trên các tên lửa, tàu vũ trụ và trạm vũ trụ ngày nay. 60 năm sau khi Yuri Gagarin lần đầu tiên bay quanh Trái Đất, những đóng góp và di sản lâu dài của ông vẫn được tôn vinh đến tận ngày nay.
Số phận bi đát của chiếc tàu ngầm nhanh nhất thế giới do Liên Xô chế tạo
Vận hành từ năm 1969, đạt tốc độ tối đa khoảng 83km/h, tàu ngầm hạt nhân Dự án 661 Anchar của Liên Xô, cho đến nay vẫn là chiếc tàu ngầm nhanh nhất thế giới.
Công nghệ đột phá!
Dự án 661 Anchar (NATO gọi là lớp Papa) của Liên Xô được khởi động vào năm 1959, do OKB-16 (nay là Phòng thiết kế chính xác KB Tochmash, Moscow) thiết kế. Chiếc đầu tiên mang mã hiệu K-162 (năm 1978 đổi tên thành K-222) được đặt đóng ngày 28/12/1963, lượng giãn nước 5.200 tấn khi nổi, 7.000 tấn khi lặn, khả năng lặn sâu 400m.
K-222 Anchar, biệt danh "Golden Fish- cá vàng" được đóng với yêu cầu buộc phải có tính sáng tạo, không được sử dụng lại các giải pháp công nghệ, kỹ thuật trước đó.
Đây cũng là chiếc tàu ngầm đầu tiên được chế tạo với thân tàu bằng titanium, thiết kế duy nhất của tàu ngầm tấn công chạy bằng năng lượng hạt nhân.
Sputnik dẫn lời chuyên gia Radiy Shmakov, tổng công trình sư thiết kế tàu ngầm, cho biết, titanium có tính chất phi từ tính, nó không bị ăn mòn, trọng lượng nhẹ bằng nửa thép. Trên thực tế, các chuyên gia đã có ý định tạo ra "con tàu vĩnh cửu".
Theo ông Radiy Shmakov, tàu ngâm Anchar đã được chế tạo theo sơ đồ hai thân, đuôi kép, các tấm titanium được hàn trong môi trường không có ôxy. Thân tàu nhẹ có hình trụ, hai cánh quạt đuôi bô trí cách nhau 5m. Trên mũi tàu có hai khoang. Chiếc tàu dài 107m có chín khoang biệt lập với thủy thủ đoàn hơn 80 người.
K-162 là chiếc tàu ngầm duy nhất thuộc Dự án 661 được chế tạo. Ảnh: Public Domain/Wikimedia.
Tàu ngầm được tích hợp nhiều thiết bị tiên tiến nhất lúc bấy giờ, trong đó, nhiều thành phần và hệ thống lần đầu tiên được thử nghiệm, như khu phức hợp viễn thông và cáp quang. Một số thiêt bị được tự động hóa hoàn toàn, tàu ngâm có khả năng hoạt động độc lập trong thời gian 70 ngày.
Với mục đích tạo ra một "thợ săn hàng không mẫu hạm", do đó, nó được trang bị các loại vũ khí mạnh, bao gồm tên lửa chống hạm Amethyst và 4 ống phóng lôi 533 mm. Tên lửa được phóng từ độ sâu 30m và cò tâm bắn 70km. Anchar có khả năng thực hiện hai đợt phóng trong khoảng thời gian ba phút.
Với những yêu cầu về công nghệ phức tạp, quá trình chế tạo chiêc tàu ngâm hạt nhân đã kéo dài mười năm. Mãi đến tháng 1/1970, tàu ngầm K-222 Anchar mới được đưa vào biên chế Hạm đội Phương Bắc .
Tàu ngầm nhanh nhất
Theo Sputnik, vào ngày 18/12/1970, chiêc tàu ngầm hạt nhân K-222 thuộc Dự án 661 Anchar đã thử nghiệm tốc độ di chuyển. Cuộc chạy thử trên biển đã đạt kết quả đáng kinh ngạc. Ở độ sâu 100m, thủy thủ đoàn đã tắt chế độ bảo vệ khẩn cấp của các tuabin để chúng tiếp tục hoạt động ngay cả trong chê độ giới hạn.
Với công suất của lò phản ứng hạt nhân ở mức 97%, chiêc tàu ngâm đã tăng tốc lên 44,7 hải lý/giờ (hơn 82 km/giờ), mặc dù theo thiết kế kỹ thuật, tốc độ tối đa là 38 hải lý/giờ. Với tốc độ này, K-222 dễ dàng đuổi kịp và qua mặt các tàu sân bay hạt nhân của Mỹ.
Cho đến nay, Anchar do Liên Xô sản xuất vẫn giữ kỷ lục thế giới về tốc độ di chuyển khi lặn. Tôc độ tôi đa của các tàu ngâm hiện đại chạy bằng năng lượng hạt nhân là 35 hải lý/giờ.
Tàu ngầm được thiết kế đuôi kép với 2 cánh quạt. Mô hình: OKBGrigorov.
Nhưng, tốc độ rât cao của Anchar có tác dụng phụ. Tiếng ồn trong khoang trung tâm lên tới 100 decibel, các thủy thủ không thể chịu nổi khi liên tục ở trong điều kiện như vậy.
Dòng chảy hỗn loạn dọc theo hai bên tàu đã tạo ra tiêng ôn gần như tiếng máy bay, và con tàu mất đi lợi thế chính là khả năng tàng hình. Do quá tải, dòng nước đè bẹp thân tàu ở một sô nơi, cửa khoang điều khiển bị xé toạc.
Tuy nhiên, Bộ Tư lệnh Hải quân Liên Xô rât thích chiêc tàu ngầm tốc độ cao. Sự vượt trội đáng kể về tốc độ cho phép Anchar di chuyên rât nhanh để bắn tên lửa hành trình và né tránh các cuộc tấn công bằng ngư lôi của đối phương.
Sau cuộc chạy thử trên biên và được sửa chữa, vào tháng 3/1971, thủy thủ đoàn của Anchar dự định thiết lập một kỷ lục mới vê tôc độ, khởi động lò phản ứng đầy đủ công suất lên 100%, một hành động được coi là điên rồ, nhưng, tàu ngầm chỉ lặp lại thành tích trước đó.
Cùng năm, Anchar đã tham gia "các cuộc đua sinh tồn" ở Đại Tây Dương. Chiếc tàu ngầm Liên Xô đã phát hiện và bám đuôi tàu sân bay Mỹ USS Saratoga. Chiếc hàng không mẫu hạm Mỹ đã không thể thoát ra khỏi chiếc tàu ngầm dù cố gắng hết tốc độ.
Số phận tàu ngầm hạt nhân Dự án 661 Anchar
Theo kế hoạch, Hải quân Liên Xô phải nhận 10 tàu ngầm Dự án 661 Anchar. Nhưng kế hoạch này không bao giờ được thực hiện. Với yêu cầu vật liệu mới và công nghệ đột phá, chi phí chế tạo Anchar trở nên quá đắt đỏ, lên đến gần 2 tỷ rúp Liên Xô (tương đương gần 3,4 tỷ USD), một con số không thê châp nhận được trong hoàn cảnh Liên Xô phải đầu tư ngân sách lớn cho quốc phòng.
Tàu ngầm Anchar hầu như liên tục neo đậu tại căn cứ hải quân hoặc được sửa chữa tại ụ tàu. Ảnh: Saturnax/Twitter.
Ngoài ra, quá trình vận hành thử nghiệm đã bộc lộ những thiếu sót nghiêm trọng của hệ thống tên lửa. Theo trang mikro-mir, một điều bất thường, tàu ngầm không thiết kế máy phát điện chạy dầu diesel đi kèm lò phản ứng hạt nhân để sử dụng trong các tình huống khẩn cấp.
Cùng với nhiều nhược điêm về thiết bị trên tàu, mức độ tin cậy kém và khó bảo trì, dẫn đến các chuyên gia đã rút ra kêt luận, việc hiện đại hóa tàu là không hợp lý. Rốt cục, chỉ một chiếc tàu ngầm duy nhất của Dự án 661 được chế tạo.
Quá trình hoạt động, Anchar hầu như liên tục neo đậu tại căn cứ hải quân hoặc được sửa chữa tại ụ tàu. Chiêc tàu này biến thành "con chuột thí nghiệm" về công nghệ. Đến năm 1988, nó được đưa vào lực lượng dự bị tại Căn cứ Hải quân Belomorsk, Severodvinsk, trong tình trạng cũ nát. Đầu tháng 3/2010, nó bị cắt ra để lấy sắt vụn.
Độc lạ các công trình có kiến trúc như trong phim viễn tưởng từ thời Liên Xô Về tổng thể, kiến trúc thời Liên Xô khá đồng bộ và giản đơn. Tuy nhiên, vẫn có nhiều công trình 'đột biến', mang phong cách phim viễn tưởng vẫn tồn tại đến ngày nay. Tờ Daily Mail (Anh) ngày 28/11 đưa tin nhiếp ảnh gia người Nga Arseniy Kotov đã phát hành cuốn sách ảnh ghi lại những công trình xây dựng...