Nhân tố cản bước tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc
Không phải môi trường bên ngoài, mà chính tình trạng mất cân bằng nội tại cùng những bất ổn do chính sách, được cho là nguyên nhân lớn nhất đang cản bước nền kinh tế lớn thứ hai thế giới.
Nền kinh tế Trung Quốc đang đối mặt với những thách thức lớn, song giới phân tích cho rằng cường quốc này có thể vượt qua những “chướng ngại vật” để thể hiện tiềm năng tăng trưởng trong dài hạn.
Công nhân làm việc trong nhà máy sản xuất ô tô ở khu công nghiệp Vũ Hán, Trung Quốc ngày 11/1/2023. Ảnh: THX/TTXVN
Thách thức nội tại
Trong bài viết mới đây đăng trên trang Project Syndicate, ông Michael Spence, người từng đoạt Giải Nobel Kinh tế, nhận định sau đại dịch COVID-19, Trung Quốc đang đối diện với giảm phát. Mặc dù GDP của Trung Quốc hiện có thể đạt mức tăng trưởng 5-6%, nhưng nhu cầu quá thấp so với năng lực sản xuất khiến tiềm năng tăng trưởng chưa thể được hiện thực hóa.
Không khó để nhận diện những yếu tố có thể làm suy yếu nhu cầu bên ngoài đối với hàng hóa của Trung Quốc. Các nền kinh tế phát triển, đặc biệt là Mỹ, đã áp mức thuế cao đối với hàng hóa nhập khẩu từ Trung Quốc và hạn chế xuất khẩu một số công nghệ tiên tiến sang Trung Quốc. Bên cạnh đó, căng thẳng thương mại giữa các quốc gia cũng gia tăng, phần lớn là do các lệnh trừng phạt nhằm vào Nga liên quan đến cuộc xung đột tại Ukraine.
Việc ông Donald Trump giành chiến thắng trong cuộc bầu cử Tổng thống Mỹ vừa qua có thể dẫn đến các biện pháp hạn chế thương mại khắc nghiệt hơn và các chính sách đơn phương sẽ làm phân mảnh hệ thống toàn cầu.
Tuy vậy, Trung Quốc đã đạt đến giai đoạn phát triển mà nhu cầu nội địa, đặc biệt là trong lĩnh vực dịch vụ phi thương mại, sẽ chiếm phần lớn tổng cầu. Với GDP bình quân đầu người đạt 13.000 USD, Trung Quốc đã trở thành nền kinh tế có thu nhập trung bình cao và tiến gần đến quốc gia có thu nhập cao. Theo đó, khu vực phi thương mại của nền kinh tế đang hướng tới quy mô thường có ở các nước thu nhập cao, tức sẽ chiếm khoảng 2/3 GDP. Điều này có nghĩa là dù nhu cầu xuất khẩu của Trung Quốc có mạnh mẽ, cũng không thể bù đắp được sự thiếu hụt lớn trong nhu cầu ở khu vực phi thương mại. Các rào cản đối với tăng trưởng của Trung Quốc chủ yếu phản ánh tổng cầu nội địa yếu, phần lớn là do chi tiêu tiêu dùng không đủ mạnh.
Tỷ lệ thất nghiệp tương đối cao và triển vọng kinh tế bấp bênh đã khiến các hộ gia đình Trung Quốc, vốn có thói quen tiết kiệm cao so với tiêu chuẩn toàn cầu, tiếp tục “thắt chặt hầu bao”. Hơn nữa, đà giảm của giá trị bất động sản, vốn chiếm khoảng 70% tài sản của các hộ gia đình Trung Quốc, đã ảnh hưởng lớn đến tiêu dùng. Giống như Mỹ sau cuộc khủng hoảng thế chấp dưới chuẩn năm 2007-2010, việc khắc phục thiệt hại tài chính của các hộ gia đình không phải là điều dễ dàng và khó có thể thực hiện nhanh chóng.
Thị trường bất động sản trầm lắng cũng ảnh hưởng đến “sức khoẻ” tài chính của các chính quyền địa phương, vốn lâu nay phụ thuộc vào bán đất và các nguồn thu khác từ bất động sản. Khó khăn tài chính gia tăng ở cấp chính quyền địa phương cũng làm trầm trọng thêm sức ép giảm phát.
Một lý do khác dẫn đến thiếu hụt nhu cầu trong nước của Trung Quốc là đầu tư tư nhân yếu. Đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Trung Quốc đã giảm sút, một phần là do các hạn chế thương mại và căng thẳng địa chính trị.
Trước đây, đầu tư công là động lực chính thúc đẩy tổng cầu của Trung Quốc. Trong ba thập kỷ tăng trưởng nhanh vừa qua, tổng vốn hình thành – phần lớn do chính phủ chỉ đạo – lên tới 40% GDP. Song hiện nay các chính quyền địa phương không còn đủ nguồn lực tài chính để theo đuổi những loại hình đầu tư quy mô lớn như trước đây và đầu tư khi phục hồi có thể sẽ chỉ tác động hạn chế đến sức tăng trưởng trong tương lai.
Tiềm năng tăng trưởng
Người dân mua sắm tại siêu thị ở tỉnh Sơn Đông, Trung Quốc. Ảnh: THX/TTXVN
Chính phủ Trung Quốc đã bắt đầu thực hiện một loạt biện pháp nhằm bình ổn thị trường bất động sản mà không tạo ra một bong bóng mới. Một trong những biện pháp này là cung cấp thêm tài chính cho các dự án chưa hoàn thiện để bảo vệ các hộ gia đình đã mua nhà trước đó khỏi nguy cơ mất trắng khoản đầu tư.
Bên cạnh đó, Chính phủ Trung Quốc cũng đang nỗ lực làm rõ vai trò của khu vực tư nhân và khu vực công. Theo thời gian, điều này sẽ giúp khôi phục niềm tin và kích thích đầu tư từ khu vực tư nhân.
Video đang HOT
Ông Spence nhấn mạnh một đánh giá toàn diện về triển vọng kinh tế của Trung Quốc không nên chỉ tập trung vào những yếu điểm của nền kinh tế. “Gã khổng lồ châu Á” này có nhiều thế mạnh vượt trội, với sự phát triển mạnh mẽ về khoa học, công nghệ, cùng nhiều ý tưởng khởi nghiệp xuất sắc.
Nền kinh tế có nhiều thế mạnh quan trọng, trong đó không thể thiếu đội ngũ nhân tài khoa học, công nghệ, doanh nhân dồi dào. Điều này đã góp phần vào sự tiến bộ của Trung Quốc – và trong một số trường hợp là dẫn đầu – trong một số công nghệ tiên tiến, bao gồm trí tuệ nhân tạo, điện toán lượng tử, xe điện, pin, năng lượng Mặt trời và một số lĩnh vực y sinh và khoa học đời sống. Nó sẽ mang lại lợi ích lớn hơn nữa một khi tình trạng mất cân bằng hiện tại được giải quyết.
Ngoài ra, Trung Quốc còn một lợi thế quan trọng nữa. Chính phủ Trung Quốc hiểu rõ tầm quan trọng của việc chuyển đổi cơ cấu theo hướng tập trung vào công nghệ và đưa ra các chính sách (và chỉ đạo đầu tư) phù hợp.
Chính vì vậy, khi lực cản tăng trưởng hiện nay chủ yếu xuất phát từ các yếu tố nội tại thay vì từ môi trường bên ngoài, Chính phủ Trung
Quốc hoàn toàn có thể giải quyết được những vấn đề này. Ví dụ, các chính sách kích thích tài chính tập trung vào việc hỗ trợ tiêu dùng có thể giúp “bôi trơn” tiến trình tái cân bằng và ngăn ngừa một vòng xoáy giảm phát.
Các chuyên gia nhấn mạnh, với một chiến lược chính sách rõ ràng và được nhắm mục tiêu đúng đắn, động lực tăng trưởng có thể được phục hồi trong vòng hai đến ba năm tới.
Lý do đằng sau sự suy yếu của các đồng tiền châu Á so với USD
Các đồng tiền trên khắp khu vực châu Á - Thái Bình Dương đã giảm xuống mức yếu nhất trong nhiều tháng so với đồng USD, do tình hình chưa mấy khởi sắc ở Trung Quốc phủ bóng đen lên các quốc gia có quan hệ kinh tế và thương mại chặt chẽ với Bắc Kinh.
Nhân viên ngân hàng kiểm đồng rupiah của Indonesia tại thủ đô Jakarta. Ảnh: AFP/TTXVN
Đồng peso của Philippines, đồng rupiah của Indonesia và đồng ringgit của Malaysia nằm trong số những đồng tiền chạm mức thấp nhất trong ba tháng so với đồng USD vào thứ Tư (24/1). Đồng baht Thái và đồng AUD của Australia cũng đang giao dịch quanh mức yếu nhất trong một đến hai tháng so với đồng bạc xanh.
Các đồng tiền châu Á và châu Đại Dương đã sụt giảm so với đồng USD kể từ cuối năm 2023, với đồng baht, AUD và NZD của New Zealand giảm khoảng 4% và đồng won Hàn Quốc giảm hơn 3%.
Trong khi đó, đồng euro chỉ mất giá khoảng 1,6% và bảng Anh chỉ mất 0,3% so với USD.
Xu hướng này một phần bắt nguồn từ sự vững chắc của đồng USD kể từ đầu năm. Thông thường, đồng USD mạnh hơn sẽ khiến các nền kinh tế mới nổi gặp khó khăn hơn trong việc thanh toán các khoản nợ bằng USD, từ đó làm suy yếu đồng nội tệ của họ.
Các số liệu kinh tế quan trọng của Mỹ được công bố trong tháng này, chẳng hạn như chỉ số giá tiêu dùng và số liệu doanh số bán lẻ tháng 12/2023 cho thấy sức mạnh của nền kinh tế Mỹ. Các nhà đầu tư đang mua vào đồng USD trong bối cảnh những kỳ vọng Cục Dự trữ liên bang Mỹ (Fed) sớm cắt giảm lãi suất đã yếu dần.
Một yếu tố khác ảnh hưởng đến các đồng tiền châu Á là tình hình kinh tế chưa mấy khởi sắc của Trung Quốc.
Mặc dù nền kinh tế lớn thứ hai thế giới đã hồi phục phần nào vào mùa Xuân năm 2023, động lực này lại không thể duy trì. Chỉ số nhà quản lý mua hàng (PMI) lĩnh vực chế tạo tháng 12/2023 của Trung Quốc ở mức 49, đánh dấu tháng thứ ba liên tiếp ở dưới ngưỡng 50 (phân cách giữa tăng trưởng và suy giảm). Chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của nước này cũng đã giảm ba tháng liên tiếp kể từ tháng 10/2023.
Nhiều nước châu Á phụ thuộc nhiều vào nền kinh tế Trung Quốc, đồng nghĩa sự quy yếu của nước này có xu hướng thúc đẩy việc bán ra đồng nội tệ của các quốc gia đó. Theo số liệu thống kê của Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF), khoảng 30% hàng xuất khẩu của Australia cùng hơn 20% hàng xuất khẩu của Hàn Quốc và Indonesia là sang Trung Quốc vào năm 2022. Bởi vì Trung Quốc nhập khẩu từ châu Á nhiều hơn so với Mỹ hoặc các nền kinh tế lớn ở châu Âu, nên điều kiện kinh tế của nước này có tác động lớn hơn đến khu vực.
Ngoài ra, những lo ngại về suy thoái kinh tế đang thúc đẩy suy đoán về việc cắt giảm lãi suất trên khắp châu Á.
Ngân hàng Trung ương Hàn Quốc (BoK) đã lần thứ tám liên tiếp giữ nguyên lãi suất chính sách ở mức 3,5% trong cuộc họp tháng này. Nhưng văn bản công bố quyết định chính sách tiền tệ mới nhất không đề cập đến việc BoK cần phải tăng lãi suất, một điểm khác biệt đáng chú ý so với những văn bản trước.
Tại Australia, số liệu việc làm ở nước này trong tháng 12/2023 đã giảm lần đầu tiên sau năm tháng. Thông tin này củng cố kỳ vọng của giới quan sát thị trường là ngân hàng trung ương nước này sẽ hạ lãi suất trong năm nay.
Áp lực chính trị về việc cắt giảm lãi suất cũng đang gia tăng do tác động tiềm tàng của lãi suất cao hơn đối với hoạt động kinh tế. Tại Thái Lan, Thủ tướng Srettha Thavisin được cho là đã kêu gọi ngân hàng trung ương hạ lãi suất chính sách từ mức 2,5% hiện tại.
Ngân hàng Nhân dân Trung Quốc (PBoC) hôm 24/1 đã công bố giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Động thái này nhằm mục đích đưa thêm tiền vào lưu thông, thúc đẩy hoạt động cho vay để vực dậy nền kinh tế.
Công ty nghiên cứu thị trường và cố vấn tài chính Mizuho Research & Technologies cho biết PBoC có thể tiến hành hạ lãi suất chính sách một lần nữa trong khoảng thời gian từ tháng 1 đến tháng 3/2024.
Nếu các nước láng giềng của Trung Quốc cũng cắt giảm lãi suất trong bối cảnh tồn tại nhiều điều không chắc chắn kế hoạch điều chỉnh lãi suất của Fed, thì các đồng tiền châu Á có thể suy yếu hơn nữa so với đồng USD.
WEF đề cập vai trò của Trung Quốc đối với nền kinh tế thế giới Giám đốc điều hành của Diễn đàn Kinh tế Thế giới (WEF) Saadia Zahidi ngày 10/1 nhận định, trước triển vọng ảm đạm của nền kinh tế thế giới trong ngắn hạn, sức khỏe của nền kinh tế Trung Quốc đồng nghĩa với việc lan tỏa không khí tích cực đến phần còn lại của thế giới. Cảng hàng hóa ở Thượng Hải,...