Nhận đơn hàng theo tháng: Dệt may đuối sức
Sau hai năm thăng hoa, năm 2019, dệt may Việt Nam đã lộ điểm yếu khi không thể đạt mục tiêu xuất khẩu 40 tỷ USD như đề ra. Dù là 1 trong 10 nhóm hàng có giá trị xuất khẩu lớn nhất, dệt may đang dần đuối sức khi tham gia chuỗi cung ứng toàn cầu cũng như phải tìm các thị trường ngách, vì không đủ sức cạnh tranh trực tiếp với hàng Trung Quốc hay Ấn ộ.
Khó đạt nhiều kỳ vọng từ các FTA
Chia sẻ với báo chí về kế hoạch năm 2020, tầm nhìn 2025, ông Lê Tiến Trường, Tổng Giám đốc Tập đoàn Dệt May Việt Nam (Vinatex) thừa nhận 2019 là năm rất khó khăn đối với ngành Dệt may Việt Nam, đặc biệt là ngành sợi. Đây cũng là năm Vinatex phải rất nỗ lực để “vượt khó” với lợi nhuận trước thuế đạt 1.394 tỷ đồng, thấp hơn so với năm 2018.
Theo lãnh đạo Vinatex, năm 2020, dự báo bức tranh kinh tế sẽ còn tiếp tục có nhiều diễn biến phức tạp, tương lai cuộc xung đột thương mại Mỹ – Trung vẫn chưa rõ ràng… nên Vinatex cũng chỉ đặt kế hoạch doanh thu (chưa VAT) đạt 50.922 tỷ đồng; Lợi nhuận trước thuế đạt 1.552 tỷ đồng.
Ông Trường cũng cho rằng, dù có nhiều ý kiến nói về kỳ vọng của ngành Dệt may khi có Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương ( CPTPP), cũng như Hiệp định thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) nhưng thực tế để được hưởng ưu đãi về thuế từ những hiệp định này, các doanh nghiệp (DN) trong ngành phải đối mặt việc đáp ứng được các quy tắc về xuất xứ.
Tuy nhiên, để đáp ứng được những quy tắc này, Việt Nam cần đầu tư vào khâu sản xuất vải để được ưu đãi về thuế suất khi xuất khẩu sang các nước trong khối CPTPP và EU. Đây là bài toán không hề dễ thực hiện khi phải cạnh tranh trực tiếp về mẫu mã, chất lượng, thời gian giao hàng, giá thành… với các nhà sản xuất lớn như Trung Quốc (chiếm 54% lượng vải toàn cầu), Ấn Độ (chiếm 20%)…
“Việt Nam mới chỉ có quy mô xuất khẩu bằng 18% lượng xuất khẩu của ngành Dệt may với lượng tiêu thụ mỗi năm khoảng dưới 1 tỷ mét vải cả dệt thoi và dệt kim. Do đó, nếu tính đến bài toán đầu tư để sản xuất vải dành riêng cho thị trường này thì còn quá nhỏ. Còn nếu đầu tư với quy mô lớn, rõ ràng sẽ khó có thể cạnh tranh được với các nhà sản xuất hiện hữu tại Trung Quốc, Ấn Độ”, ông Trường phân tích.
Cũng theo ông Lê Tiến Trường, hiện tại các DN có chuỗi cung ứng hoàn chỉnh đều đang đi theo con đường “ngách”. Thị trường ngách và cần có sự đảm bảo của chuỗi cung ứng. DN Việt Tiến là một ví dụ. Theo ông Trường, Việt Tiến để trở thành đối tác lớn của Uniqlo và Nike, công ty phải đầu tư rất nhiều. Khi có được sự đảm bảo của những đối tác đứng đầu chuỗi cung ứng, đường đi và đầu ra cho sản phẩm mới có thể đảm bảo. Và khi đó, doanh nghiệp tránh được việc đầu tư dàn trải trong bối cảnh không thể cạnh tranh với giá vải nhập từ Trung Quốc, Ấn Độ.
Video đang HOT
Khó khăn ngày càng lớn
Theo ông Nguyễn Xuân Dương, Chủ tịch HĐQT Tổng Cty may Hưng Yên, nhiều năm trước, công ty đã có đơn hàng đến hết quý II, thậm chí có nhiều đơn hàng khó sản xuất, Tổng Công ty may Hưng Yên còn ký trước đơn hàng đến tận cuối năm sau với đối tác. Nhế nhưng năm nay, DN chỉ nhận được lượng đơn hàng về rất rải rác.
“Dù đã làm ăn với nhau cả chục năm nhưng đối tác từ Mỹ giờ đây không ký các hợp đồng dài hạn, mà chỉ ký ngắn hợp đồng hạn kiểu “ăn đong”. Có vẻ họ muốn nghe ngóng biến chuyển của thương chiến Mỹ – Trung Quốc. Năm nay, không chỉ “khan” hợp đồng, DN còn bị đối tác ép giá để ký hợp đồng. May Hưng Yên chủ yếu sản xuất các mặt hàng khó và cao cấp như áo Jaket, áo lông vũ, hàng thời trang… nên nhiều đối tác có đơn hàng vẫn ký, còn các đơn hàng dễ, họ vẫn chưa ký và cũng chưa biết thế nào?”, ông Dương cho hay.
Báo cáo của Bộ Công Thương về hoạt động của các DN dệt may cũng cho hay, số lượng đơn hàng của nhiều DN mới chỉ bằng 80% so với cùng kỳ năm trước. Không chỉ thế, nhiều DN thay vì nhận được đơn hàng dài hạn như trước kia, giờ đây, họ chỉ có các đơn hàng theo tháng, dài nhất là theo quý. Nhiều các DN dệt may đã và đang đối mặt với không ít khó khăn khi phải giành giật đơn hàng với DN ở các cường quốc dệt may như Trung Quốc, Ấn Độ, Bangladesh…
Ông Nguyễn Đức Giang, Chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) thừa nhận, dệt may Việt Nam đang đứng trước rất nhiều thách thức. Cụ thể, dù có những lợi thế từ việc mở cửa thị trường thông qua các FTA như CPTPP hay EVFTA. Tuy nhiên, các DN dệt may Việt Nam phải nhanh chóng cơ cấu lại ngành Dệt may, giải quyết bài toán yếu về thiết kế, thương hiệu, quản trị, tự chủ nguyên liệu đáp ứng quy tắc xuất xứ.
Cũng theo ông Giang, năm 2020, ngành Dệt may đặt mục tiêu đạt tổng trị giá xuất khẩu 42 tỷ USD. Để đạt mục tiêu đề ra về lâu dài, các DN dệt may cần đẩy mạnh đầu tư vào các lĩnh vực dệt, nhuộm; cần chú trọng khâu chuyển giao công nghệ, lồng ghép chương trình đào tạo nhân lực về quản lý kỹ thuật, công nghệ khi ký hợp đồng mua máy móc, thiết bị.
Dù kỳ vọng rất lớn và có mức tăng trưởng ước khoảng 7,5% nhưng thực tế đến hết năm 2019, dệt may Việt Nam để vuột khỏi tầm tay mục tiêu đạt kim ngạch xuất khẩu 40 tỷ USD. Các số liệu thống kê của Hiệp hội Dệt may Việt Nam (Vitas) cho thấy, năm 2019 dệt may xuất siêu 16,62 tỷ USD, tăng 2,25 tỷ USD so với năm trước đó.
Theo Phạm Tuyên/Tiền phong
Nhà đầu tư ngoại lại có ý kiến về room 49% tại trung gian thanh toán
Các nhà đầu tư nước ngoài có nhiều kiến nghị liên quan đến lĩnh vực ngân hàng trong khuôn khổ Diễn đàn Doanh nghiệp Việt Nam (VBF) 2019 sẽ diễn ra vào tuần tới.
Nhiều nhà đầu tư ngoại muốn thâu tóm trung gian thanh toán trong nước
Nhà đầu tư ngoại đề nghị nới room 49%, loại bỏ quy định hồi tố
Trong Báo cáo tổng hợp ý kiến gửi về Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Nhóm công tác đầu tư và Thương mại đặc biệt tỏ ra quan tâm đến các fintech.
Theo đó, nhóm công tác cho hay, các nhà đầu tư nước ngoài có nhu cầu thành lập một doanh nghiệp thuộc lĩnh vực fintech ở Việt Nam gặp phải một số rào cản như không có hướng dẫn về các thủ tục pháp lý và giấy phép, mà phải dựa vào sự tự do quyết định từ phía chính quyền.
Ngoài ra, các nhà đầu tư nước ngoài cũng có ý kiến về Dự thảo nghị định sửa đổi Nghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt đang được Ngân hàng Nhà nước đưa ra lấy ý kiến.
Thứ nhất, Nhóm công tác cho rằng, theo quy định tại điểm c Khoản 2 Điều 26 của Dự thảo Nghị định, một trong các điều kiện đối với tổ chức không phải là ngân hàng cung ứng dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thu hộ, chi hộ là phải có Đề án cung ứng dịch vụ trung gian thanh toan trong đó phải có nội dung về, trong số các nội dung khác, cơ chế mở và duy trì số dư tài khoản đảm bảo thanh toán, mục đích sử dụng tài khoản đảm bảo thanh toán. Tuy nhiên, điều kiện kinh doanh này là một gánh nặng và không cần thiết vì mục đích của nhà cung ứng dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thu hộ, chi hộ trong việc sử dụng tài khoản đảm bảo thanh toán là không rõ ràng.
Thứ hai, theo Khoản 2 Điều 29 của Dự thảo Nghị định, tỷ lệ tối đa phần vốn góp của các nhà đầu tư nước ngoài bao gồm cả sở hữu trực tiếp và gián tiếp là 49% vốn điều lệ của tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán. Nhóm công tác cho rằng, quy định này có khả năng trái với các cam kết quốc tế của Việt Nam theo các hiệp định thương mại quốc tế (ví dụ, hiệp định GATS, CPTPP, AFAS và EVFTA).
Thứ ba, Khoản 1 Điều 42 của Dự thảo Nghị định, các tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán được cấp phép trước ngày Nghị định này có hiệu lực thi hành có tỷ lệ phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài cao hơn 49% được tiếp tục duy trì cho đến khi có sự thay đổi nhà đầu tư nước ngoài hoặc hết thời hạn Giấy phép cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán thì phải đáp ứng quy định tại Nghị định này.
Tuy vậy, theo Nhóm công tác, quy định này mâu thuẫn với Điều 74 của Luật Đầu và Điều 156 của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật.
Chính vì vậy, Nhóm công tác đề xuất loại bỏ điều kiện kinh doanh liên quan đến việc mở và duy trì số dư tài khoản đảm bảo thanh toán đối với tổ chức cung ứng dịch vụ hỗ trợ dịch vụ thu hộ, chi hộ.
Bên cạnh đó, các nhà đầu tư nước ngoài cũng đề nghị Ngân hàng Nhà nước cân nhắc lại giới hạn 49% đối với sở hữu nước ngoài. Đồng thời, cân nhắc lại việc áp dụng hồi tố của yêu cầu tuân thủ giới hạn sở hữu nước ngoài. Trong trường hợp Chính phủ cuối cùng lựa chọn áp dụng mức giới hạn sở hữu nước ngoài, sở hữu nước ngoài tại thời điểm đạo luật được thông qua sẽ không bị hồi tố và không phải thoái vốn theo quy định về hạn mức của luật.
Chuyên gia luật: Hạn chế room và hồi tố không vi phạm cam kết quốc tế
Sau khi Ngân hàng Nhà nước công bốNghị định số 101/2012/NĐ-CP về thanh toán không dùng tiền mặt, một số doanh nghiệp nước ngoài cho rằng, quy định trên sẽ khiến Việt Nam đứng trước nguy cơ bị kiện vì trái cam kết quốc tế, quy định hồi tố trái Luật Đầu tư.
Tuy nhiên, chia sẻ với Báo Đầu tư Online, bà Nguyễn Thùy Dương, Phó tổng giám đốc phụ trách Bộ phận Dịch vụ tài chính, Ngân hàng EY Việt Nam, Phó chủ tịch Câu lạc bộ Fintech Việt Nam nhận định, hoàn toàn không có khả năng Việt Nam bị kiện nếu giới hạn room như đề xuất của Ngân hàng Nhà nước, bởi trung gian thanh toán không nằm trong phạm vi các cam kết mở cửa của Việt Nam. Hơn nữa, do fintech là mô hình mới, nên việc thả nổi ở giai đoạn đầu sau đó mới quản lý là một thông lệ ở nhiều quốc gia.
Trả lời câu hỏi của Báo Đầu tư Online, Luật sư Trương Thanh Đức, Chủ tịch HĐTV Công ty luật Basico cũng khẳng định, nguyên tắc không hồi tố chỉ áp dụng với các dự án đầu tư, còn fintech là loại hình khác, trước đây thả nổi do chưa có quy định quản lý, nay có quy định thì phải tuân thủ.
Theo luật sư Trương Thanh Đức, không chỉ trung gian thanh toán, mà cả các mô hình cho vay ngang hàng P2P lending lâu nay thả nổi, nhưng sau này có quy định thì sẽ rất nhiều doanh nghiệp phải đóng cửa.
Liên quan đến vấn đề room sở hữu, ông Lê Anh Dũng, Phó vụ trưởng Vụ Thanh toán (Ngân hàng Nhà nước) cũng cho biết, trước khi đưa ra 49%, Ngân hàng Nhà nước đã tham vấn Bộ Công thương, đối chiếu các cam kết mở cửa của Việt Nam tại Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) hay Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và khẳng định, trung gian thanh toán không thuộc phạm vi cam kết mở cửa của Việt Nam.
"Tỷ lệ 49% là hài hòa, phù hợp, vừa đảm bảo nguyên tắc chủ quyền quốc gia, vừa đảm bảo an ninh an toàn tiền tệ, cũng như tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong nước có cơ hội cạnh tranh bình đẳng mà vẫn tranh thủ thu hút được vốn nhà đầu tư nước ngoài nhằm đảm bảo hài hòa lợi ích giữa các bên", ông Dũng nói.
Hà Tâm
Theo Baodautu.vn
"Room" ngoại tại tổ chức trung gian thanh toán có thể trái cam kết quốc tế Đề xuất mức giới hạn sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài tại tổ chức trung gian thanh toán "có khả năng rất cao" trái với các cam kết quốc tế của Việt Nam. Tính đến 14/11/2019, Việt Nam đã có 32 tổ chức cung ứng dịch vụ trung gian thanh toán không phải là ngân hàng. Đây là ý kiến phản...