‘Nhà tư sản’ chuyển vũ khí từ Campuchia về miền Nam
Cùng với việc khai thác nguồn hàng, trong những năm đánh Mỹ, ta đã tổ chức tuyến vận chuyển quá cảnh qua Campuchia.
Ngày mở lối
Từ cuối năm 1950, phía Việt Nam đã cử Giáo sư Ca Văn Thỉnh sang làm đại sứ tại Phnom Penh. Ca Văn Thỉnh vốn là đốc học tỉnh Bến Tre từ thời Pháp, sau đó trở thành thầy giáo dạy trường trung học tại Sài Gòn mà thái tử Sihanouk là học trò. Quan hệ thầy trò đã góp phần rất quan trọng vào việc thắt chặt mối quan hệ Việt Nam – Campuchia.
Với quan hệ tốt đẹp giữa hai nước và trước những đe dọa của Mỹ và chính quyền Ngô Đình Diệm, thái tử Sihanouk sẵn sàng tạo mọi điều kiện thuận lợi cho Việt Nam. Từ đó, đã mở ra con đường thủy để chuyên chở vũ khí thẳng từ Liên Xô tới cảng Sihanoukville. Rồi sau đó đưa về những kho đặt rải rác dọc biên giới. Từ các kho này hàng được vận chuyển về các địa điểm khác nhau trong vùng căn cứ.
Từ năm 1966, chi viện bằng đường bộ không đủ. Con đường vận tải trên biển Đông bị kiểm soát gắt gao từ sau “vụ Vũng Rô” (tháng 2-1965). Đồng thời, do nhiều yếu tố, việc đưa vũ khí và vật tư hàng hóa qua đường sắt liên vận phía Bắc gặp trắc trở, con đường qua cảng Sihanoukville càng trở thành trọng yếu, đưa hàng từ Liên Xô vào cảng Sihanoukville, sử dụng cảng và địa bàn Campuchia để đưa vào miền Nam. Đoàn 17 của Cục Hậu cần B2 đảm nhận chính trong việc vận chuyển rồi từ đó qua nhiều tuyến vận tải khác nhau vào tới tận B2, tức Nam bộ. Hàng hóa do nước bạn viện trợ khi chở đến cảng này được chuyển vào một kho riêng, mà các bạn Campuchia hay gọi là “kho Việt cộng”. Từ đây, có các “đường dây” của B2 đến nhận và chuyển về vùng giải phóng Nam Bộ.
Bản đồ đường mòn từ cảng Sihanoukville vào chiến trường miền Nam
Người phụ trách chính công tác này tại PhnomPenh là ông Nguyễn Gia Đằng, tức Tư Cam, ủy viên Ban cán sự Việt kiều Campuchia (bí danh là Ban cán sự K). Có những thời kỳ phải chấp nhận mức giá “lót đường” cho một số tướng tá Campuchia rất cao, 2 đôla/kg vũ khí và 1 đôla/kg các loại hàng khác. Mức giá này luôn thay đổi, tùy theo tuyến đường nào và viên tướng nào quản lý tuyến đường đó. Có những viên tướng không chịu lấy tiền mà đòi đổi vũ khí.
Giải pháp Đức Phương
Video đang HOT
Khó khăn như vậy, nhưng “ông chủ lớn” Đức Phương có giải pháp. Khi này ông đã trong vai ông chủ công ty Hắc Lý. Được chính quyền Campuchia cấp giấy phép kinh doanh trên toàn cõi Chùa Tháp. Dưới sự chỉ huy của Đức Phương, công ty vừa làm nhiệm vụ thu mua khai thác các nguồn hàng hóa tại Campuchia, vừa tổ chức tiếp nhận hàng chi viện của Trung ương qua cảng Sihanoukville, tiếp chuyển hàng về khu vực thuộc chiến trường B2.
Biên chế của công ty chỉ có 84 người nhưng sử dung lực lượng ngoài lên đến 564 người, chủ yếu là Việt kiều và hàng trăm dân thường, binh lính, sĩ quan quân đội hoàng gia Campuchia hoạt động cho ta. Đây là chuyến vận tải hoàn toàn bằng cơ giới, có tới 150 xe ô tô vận tải, có lúc thuê mướn thêm 300 xe ô tô, 500 ca nô để vận chuyển hàng hóa đi các hướng, nên đã vận chuyển và khai thác được một khối lượng hàng lớn và quan trọng. Ngoài ra, còn có các cơ sở kinh doanh mua bán sản xuất, sửa chữa ở các thành phố của Campuchia như xưởng sửa chữa xe đạp, thực phẩm, may mặc quần áo.
Cổng cảng Sihanukvile
Nhắc đến công ty Hắc Lý, trong cuốn “Trường Sơn – Đường Hồ Chí Minh huyền thoại”, một tác phẩm dày hơn 700 trang, Nhà xuất bản Trẻ ấn hành 2005, Đại tá Nguyễn Việt Phương vốn là sĩ quan của Tuyến chi viện chiến lược 559 viết: “Một cán bộ đầy tài năng của Tổng cục Hậu cần là Đức Phương được cử vào đóng vai nhà tư sản kinh doanh, làm chủ Công ty Thương mại Hắc Lý. Đức Phương có dáng người to cao, đường bệ, nước da ngăm nâu, trán hói…, đủ điều kiện để đóng vai một ông chủ hãng buôn lớn xứ Chùa Tháp. Miền Bắc đã cung ứng cho Đức Phương đủ vàng và ngoại tệ mạnh để hoạt động kinh doanh, ông đã mở rộng quan hệ với các quan chức cao cấp ở Campuchia, trong đó có Tư lệnh thành phố Phnom Penh là Unxiut. Unxiut đã nhanh chóng kết thân với Đức Phương. Viên sĩ quan phụ tá của Unxiut cũng được Đức Phương ưu ái, cho nên tận tình giúp đỡ. Với mối quan hệ đó, Công ty Hắc Lý có thể thuê cả một đoàn xe nhà binh của quân đội Campuchia chở vũ khí và hàng hóa từ cảng Sihanoukville về đến tận biên giới Việt Nam.
Đức Phương còn chơi thân với Bộ trưởng An ninh của Chính phủ Campuchia. Có lần nhân ngày sinh nhật vị Bộ trưởng này, Đức Phương đã gửi một món quà tặng đặc biệt: một chiếc Mercedes mới toanh. Để đáp lễ, Bộ trưởng an ninh đã tặng lại Đức Phương chiếc xe cũ mình đang đi để làm lưu niệm. Với chiếc xe này, Đức Phương và các cán bộ của Hắc Lý đi đến đâu cảnh sát cũng không đụng tới, chỉ nhìn thấy chiếc xe và số hiệu là đã giơ tay cúi chào. Chính Đức Phương đã tổ chức những chuyến xe đặc biệt chở hàng Z, tức tiền Sài Gòn, vào cho Trung ương Cục.” Cũng trên con đường này, ta đã vận chuyển tên lửa A22 do Liên Xô chế tạo vào tận chiến trường Nam Bộ.
Xe tải Công ty Hắc Lý chuyển hàng
Trong báo cáo của B2 đã nhận từ Campuchia 20.478 tấn vũ khí, 1.284 tấn quân trang, 731 tấn quân y, 65.810 tấn gạo, 5.000 tấn muối. Không chỉ vận chuyển, công ty Hắc Lý còn mua đủ các loại hàng phục vụ cho chiến trường. Bác sĩ Lê Khắc Thế, Nguyên chủ nhiệm quân y Binh trạm 53 đóng ở bìa rừng Tungsten (Campuchia), nói rằng: nhờ nguồn hàng từ Hắc Lý mà Trạm xá của Binh trạm và cả hệ thống quân y 559 ở Hạ Lào, đông bắc Campuchia có đủ các loại kháng sinh của Pháp, Anh, Mỹ để điều trị cho thương binh; Bệnh nhân còn được bồi dưỡng cả sữa chim xanh (nestle), nhãn hiệu thực phẩm nổi tiếng của Thụy Sĩ.
Tình báo Mỹ cũng biết khá rõ về con đường tiếp vận này, biết rõ đến độ mỗi chuyến hàng cần bao nhiêu xe để chuyên chở và tên các tướng lĩnh Campuchia phụ trách việc chuyên chở những lô hàng này như thế nào. Trang 94, hồ sơ Abrams Tapes, có nói về cơ cấu, nhân sự của đường vận chuyểnvề Công ty Hắc Lý và tên người sĩ quan Campuchia liên hệ đến những vụ chuyên chở hàng ra đường C-4. Nhưng do diễn ra trên đất Chùa Tháp nên họ không thể trực tiếp can thiệp. Phải đến năm 18/3/1970, Mỹ giúp nhóm Lonnol và Sirik Matak tiến hành đảo chính lật đổ chế độ Sihanouk, xóa bỏ nền trung lập của Campuchia. Từ đó, đường tiếp vận quan trọng này mới bị cắt đứt.
Theo Vietnamnet
Bí mật 16 tấn vàng trong ngày giải phóng
16 tấn vàng dự trữ của chế độ cũ cũng được bảo quản nguyên vẹn. Việc tiếp quản các ngân hàng với tiền, vàng còn nguyên vẹn là một chuyện ngoạn mục.
Đầu tháng 3/1975, ông Lữ Minh Châu, khi đó là Phó Ban Tài chính đặc biệt của Trung ương Cục, trong vỏ bọc là cán bộ một ngân hàng ngụy quyền Sài Gòn, được gọi ra căn cứ, ông Phạm Hùng, Bí thư Trung ương Cục giao nhiệm vụ: nắm chắc hệ thống ngân hàng của miền Nam, đặc biệt là ngân hàng quốc gia, bộ máy phát hành tiền, kho tiền và kim khí quý... để đón quân giải phóng vào chốt giữ.
Trở vào Sài Gòn, Ban Tài chính đặc biệt ráo riết thực hiện nhiệm vụ được giao, chiến thắng càng đến gần, mọi công việc càng gấp gáp, chiều 30/4/1975, tại ngã tư Bảy Hiền, ông Lữ Minh Châu đón đoàn cán bộ tài chính của Ủy ban quân quản, phần lớn gồm các đồng chí thuộc Ban Kinh tài của Trung ương Cục do đồng chí Hai Xô làm trưởng ban vào tiếp nhận hệ thống Ngân hàng quốc gia của chính quyền Việt Nam cộng hòa và một số đơn vị quân giải phóng vào làm nhiệm vụ bảo vệ.
Do đã chủ động chuẩn bị trước, nên mọi việc được khá suôn sẻ. Toàn bộ tiền và vàng dự trữ trong ngân hàng được tiếp quản nguyên vẹn cùng với đầy đủ hồ sơ sổ sách. Theo thống kê, thời điểm đó có 615 tỷ đồng tiền mặt lưu thông, 440 tỉ còn lại nằm trong tài khoản tiền gửi.
Ông Lữ Minh Châu
Trong kho dự trữ còn có 125 tỉ tiền in theo kiểu mới chưa phát hành, số này được lệnh phải thiêu hủy, vì đó là giấy bạc mà chính quyền Sài Gòn chuẩn bị để đổi tiền nhưng chưa kịp thực hiện.
Cùng với đó 16 tấn vàng dự trữ của chế độ cũ cũng được bảo quản nguyên vẹn. Việc tiếp quản các ngân hàng với tiền, vàng còn nguyên vẹn là một chuyện ngoạn mục.
Đêm 30/4, Ban Quân quản các ngân hàng ra lời kêu gọi tất cả các quan chức, nhân viên các ngân hàng đúng 8h ngày 1/5 có mặt tại 17 Bến Chương Dương, trụ sở Ngân hàng quốc gia của chính quyền cũ. Tại đây, thay mặt Ủy ban quân quản, ông Lữ Minh Châu công bố lệnh tiếp quản và lệnh cho các ngân hàng ngưng hoạt động.
Đồng thời công bố chính sách của cách mạng sẽ tiếp quản toàn bộ quyền lợi và nghĩa vụ trong quan hệ đối nội, đối ngoại của các ngân hàng của chế độ cũ. Trong đó bao gồm cả việc xác nhận nợ, tiếp quản các kho thế chấp, trả lại tiền gửi cho nhân dân và các tổ chức trong ngoài nước. Lúc đó Thống đốc Ngân hàng quốc gia Lê Quang Uyển và một số phó thống đốc, các giám đốc ngân hàng thương mại khu vực Sài Gòn - Gia Định cũng có mặt. Những người có liên quan trực tiếp đến việc quản lý, bảo vệ tài sản được giữ lại làm việc, anh chị em khác về nhà chờ, khi cần sẽ gọi.
Sau khi tiếp quản, tài sản thuộc Ngân hàng Trung ương được bàn giao toàn bộ cho Ngân hàng Trung ương của Chính phủ Cách mạng lâm thời, do ông Trần Dương làm Thống đốc. Ông Lữ Minh Châu được chính thức bổ nhiệm trưởng ban tiếp quản hệ thống ngân hàng thương mại khu vực Sài Gòn - Gia Định và Trưởng ban thành lập ngân hàng thành phố Sài Gòn (Sau này là ngân hàng Công thương thành phố).
Trụ sở ngân hàng quốc gia của chính quyền Sài Gòn
Dưới sự chỉ huy của ông Lữ Minh Châu, việc kêu gọi nhân viên ngân hàng chế độ cũ quay lại làm việc cũng như việc kiểm kê đối chiếu sổ sách được tiến hành nhanh chóng. Nhờ đó mà đến ngày 9/5/1975, các ngân hàng đã hoạt động trở lại. Cùng với đó, ông đã tham gia thành lập ngân hàng mới của Chính phủ Cách mạng lâm thời để thực hiện quyền phát hành, quản lý chính sách tiền tệ, tín dụng, ngân hàng miền Nam vừa giải phóng, tiến tới ngân hàng thống nhất đất nước.
Ngày 6/6/1975, năm tuần sau ngày giải phóng, Chính phủ Lâm thời cách mạng Cộng hòa Miền Nam Việt Nam đã ra Nghị định 04/ PCT - 75 về thành lập Ngân Hàng quốc gia. Việc giữ nguyên tên gọi cũ đã giữ được "chân đứng" cho chúng ta tại các tổ chức tài chính quốc tế , vì "Ngân hàng quốc gia Việt Nam" của chính quyền Sài Gòn là thành viên sáng lập Ngân hàng phát triển châu Á (ADB) và là thành viên của Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) cũng như của Ngân hàng thế giới (WB), giúp ta kế thừa được quan hệ tín dụng quốc tế của ngân hàng cũ. Lúc này tiền gửi của chế độ Việt Nam Cộng hòa ở nước ngoài vẫn còn hơn 100 triệu USD. Lịch sử đã chứng minh tính linh hoạt và đúng đắn của sự kiện này.
Ông Văn Văn Sáu - trước 30/4/1975, là Giám đốc Nha Tín dụng cho biết: Ngày 1/5/1975, chúng tôi được triệu tập họp hội nghị quán triệt "Chính sách 10 điểm" của Chính phủ cách mạng lâm thời. Tôi ngạc nhiên thấy có đồng nghiệp cũ, nhưng giờ lại là cán bộ Ban Quân quản ngân hàng trong vị trí hướng dẫn chúng tôi học tập chính trị. Sau này mới biết đó là những cán bộ cách mạng hoạt động bí mật nội đô. Rồi theo chủ trương, Ngân hàng Sài Gòn - Gia Định cũng hoạt động trở lại. Dạo ấy, tôi không cắt nghĩa được vì sao lại thấy mình cứ ngày một vui hơn mỗi khi đến công sở làm việc. Mãi sau này tôi mới biết chính bởi mình bị cuốn hút vào cái hào khí đất nước được giải phóng, Tổ quốc thống nhất. Thì ra đó là tình cảm dân tộc vốn vẫn chảy trong máu người dân Việt như tôi. Trong chuyên môn, cán bộ cũ và mới đều dễ tìm thấy sự đồng cảm, sẻ chia, giúp đỡ lẫn nhau. Nhờ đó công việc của tôi ngày một tiến bộ lên. Khi đất nước bước vào đổi mới, tôi và nhiều chuyên gia ngân hàng cũ đã được mời tham gia soạn thảo đề án đổi mới ngân hàng. Riêng tôi được phân công vào Ban soạn thảo Đề án Thành lập Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank). Năm 1991 tôi trở thành Ủy viên HĐQT Agribank, kiêm Giám đốc Sở II Agribank tại TP Hồ Chí Minh. Ít lâu sau đó, vẫn trong cương vị Ủy viên HĐQT Agribank, tôi được giao nhiệm vụ Phó giám đốc Ngân hàng Liên doanh VinaSiam, cho đến năm 2001 thì được nghỉ hưu.
Theo Minh Thư
VietnamNet
Sự trùng hợp giữa trận Điện Biên Phủ và chiến dịch Hồ Chí Minh 11h30 ngày 30/4/1975, xe tăng mang biển số 390 đã húc đổ cánh cổng sắt lớn, Trung úy Bùi Quang Thận tiến lên cắm lá cờ Cách mạng trên nóc Dinh Độc lập. Đó là thời khắc lịch sử vĩ đại, đánh dấu một mốc son chói lọi: Miền Nam giải phóng, đất nước được thống nhất. Chiều 27/4, tại hội trường Thống...