Nguyên tắc áp dụng pháp luật: Áp dụng văn bản ban hành sau
Tiếp tục chương trình phiên họp thứ 43, Ủy ban Thường vụ Quốc hội đã cho ý kiến về các vấn đề còn ý kiến khác nhau của dự án Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật (VBQPPL).
Hai phương án về trách nhiệm tham gia thẩm tra
Hai vấn đề lớn được nhiều Ủy viên UBTVQH cho ý kiến là trách nhiệm tham gia thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và nguyên tắc áp dụng pháp luật trong trường hợp các văn bản có quy định khác nhau về cùng một vấn đề.
Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, qua trao đổi, các cơ quan thống nhất cần tiếp thu, bổ sung quy định về trách nhiệm tham gia thẩm tra các dự án luật, pháp lệnh của Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội, đề xuất 2 phương án.
Phương án thứ nhất là bổ sung trách nhiệm tham gia thẩm tra của tất cả các cơ quan của Quốc hội theo hướng quy định khái quát. Theo đó, đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết, UBTVQH sẽ chỉ phân công cơ quan chủ trì thẩm tra. Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban khác chủ động tổ chức nghiên cứu để chuẩn bị ý kiến tham gia thẩm tra về những nội dung của dự án liên quan đến lĩnh vực do mình phụ trách, gửi văn bản tham gia thẩm tra và cử đại diện tham dự phiên họp của cơ quan chủ trì thẩm tra.
Phương án này có ưu điểm là bảo đảm sự bình đẳng trong việc thực hiện trách nhiệm tham gia thẩm tra của tất cả các cơ quan của Quốc hội nhằm “gác cửa” về những nội dung của dự án có liên quan đến lĩnh vực do mình phụ trách. Quy định như vậy sẽ nâng cao trách nhiệm của tất cả các cơ quan trong việc tham gia thẩm tra, góp phần bảo đảm chất lượng của văn bản.
Phương án 2 là bổ sung quy định trách nhiệm của 3 cơ quan gồm Hội đồng Dân tộc, Ủy ban Quốc phòng và an ninh, Ủy ban Đối ngoại trong việc tham gia thẩm tra các vấn đề lồng ghép chính sách dân tộc; bảo đảm quốc phòng, an ninh; tính tương thích với các điều ước quốc tế.
Phương án này giúp chỉ rõ trách nhiệm của 3 cơ quan nêu trên trong việc tham gia thẩm tra đối với các dự án luật, pháp lệnh, dự thảo Nghị quyết. Tuy nhiên, đối với các nội dung thuộc lĩnh vực do các Ủy ban khác phụ trách (như kinh tế, tài chính, ngân sách, phòng, chống tham nhũng, văn hóa, giáo dục, khoa học – công nghệ, bảo vệ môi trường…) thì lại không được xử lý đồng bộ, nên không bảo đảm tính toàn diện trong công tác tham gia thẩm tra của các cơ quan của Quốc hội.
Video đang HOT
Qua thẩm tra, thường trực Ủy ban Pháp luật đề nghị chọn Phương án 1.
Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu phát biểu kết luận nội dung thảo luận. Ảnh: Quốc hội
Áp dụng văn bản ban hành sau!
Theo Luật BHVBQPPL, trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau. Ngoài ra, hệ thống pháp luật hiện nay còn tồn tại nguyên tắc “ưu tiên áp dụng pháp luật”. Việc tồn tại đồng thời hai nguyên tắc áp dụng pháp luật này đã dẫn đến phát sinh xung đột, mâu thuẫn trong một số trường hợp do không xác định được phải áp dụng theo quy định nào. Đây cũng là một trong các vấn đề “chồng chéo trong pháp luật về đầu tư kinh doanh” được Phòng Thương mại và công nghiệp Việt Nam nêu ra thời gian gần đây.
Vấn đề này, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng cho biết, hiện có 2 loại ý kiến.
Loại ý kiến thứ nhất cho rằng, quy định của Luật BHVBQPPL là phù hợp để bảo đảm tránh xung đột, mâu thuẫn trong áp dụng pháp luật. Trường hợp văn bản ban hành trước có quy định ưu tiên áp dụng pháp luật thì vẫn phải thực hiện theo nguyên tắc áp dụng văn bản ban hành sau.
Loại ý kiến thứ hai cho rằng cả nguyên tắc áp dụng pháp luật tại Luật BHVBQPPL và nguyên tắc “ưu tiên áp dụng pháp luật” như trong một số luật là cần thiết. Việc phát sinh mâu thuẫn trong thực tiễn áp dụng luật là do trong Luật BHVBQPPL chưa có sự kết nối giữa 2 nguyên tắc này.
Vì vậy, loại ý kiến này đề nghị sửa đổi khoản 3 Điều 156 theo hướng: trong trường hợp các văn bản quy phạm pháp luật do cùng một cơ quan ban hành có quy định khác nhau về cùng một vấn đề thì áp dụng quy định của văn bản ban hành sau; trường hợp văn bản ban hành trước có quy định ưu tiên áp dụng pháp luật đối với vấn đề đó thì áp dụng quy định của văn bản ban hành trước.
Thường trực Ủy ban Pháp luật nhận thấy, dù thực hiện theo Phương án 1 hay Phương án 2 thì việc tăng cường kỷ luật, kỷ cương trong công tác xây dựng pháp luật, bảo đảm thực hiện đầy đủ, nghiêm túc Điều 12 của Luật BHVBQPPL nhằm hạn chế tối đa việc quy định mâu thuẫn, chồng chéo giữa các luật ngay từ khâu soạn thảo, thẩm định, thẩm tra… là cần thiết.
Kết luận nội dung thảo luận, Phó Chủ tịch Quốc hội Uông Chu Lưu nêu rõ, cần tiếp thu, hoàn thiện dự thảo Luật theo hướng: UBTVQH phân công cơ quan chủ trì thẩm tra, các Ủy ban khác tham gia thẩm tra về những nội dung của dự án liên quan đến lĩnh vực do mình phụ trách; với Hội đồng Dân tộc và Ủy ban Các vấn đề xã hội cần có quy định riêng về trách nhiệm thẩm tra của hai cơ quan này.
Còn về nguyên tắc áp dụng pháp luật trong trường hợp các văn bản có quy định khác nhau về cùng một vấn đề, trường hợp có hai văn bản cùng quy định một vấn đề thì áp dụng văn bản sau. Trong trường hợp luật ban hành trước có những chính sách cần ưu tiên áp dụng mà các luật sau vẫn thấy các điều đó hợp lý thì quy định ngay trong luật.
Phương Thảo
Bộ Công an và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội ký kết Quy chế phối hợp
Chiều tối 21/11, Bộ Công an và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội khóa XIV ký kết Quy chế phối hợp.
Toàn cảnh Lễ ký kết. Ảnh: VGP/Nguyễn Hoàng
Tham dự Lễ ký có Phó Chủ tịch Thường trực Quốc hội Tòng Thị Phóng; Bộ trưởng Bộ Công an Tô Lâm; Chủ tịch Hội đồng Dân tộc của Quốc hội Hà Ngọc Chiến.
Thực hiện Quy chế phối hợp số 02/QCPH-BCA-HĐDT ngày 11/2/2015, Bộ Công an và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội đã phối hợp chặt chẽ, có hiệu quả trong công tác trao đổi thông tin; xây dựng văn bản quy phạm pháp luật; tham mưu, kiến nghị ban hành, triển khai thực hiện các nội dung về công tác dân tộc, chính sách dân tộc; xây dựng phong trào toàn dân bảo vệ an ninh Tổ quốc... Công tác phối hợp giữa 2 cơ quan đã góp phần phát triển kinh tế-xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh và giải quyết kịp thời những vấn đề phức tạp phát sinh ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi,...
Tuy nhiên, sau gần 5 năm thực hiện Quy chế phối hợp số 02, bên cạnh những kết quả quan trọng đạt được, công tác phối hợp giữa Bộ Công an và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội còn một số tồn tại, hạn chế làm ảnh hưởng đến hiệu quả công tác phối hợp.
Để khắc phục những hạn chế, tồn tại và đáp ứng các yêu cầu, nhiệm vụ trong tình hình mới, hai bên đã thống nhất và xây dựng Quy chế phối hợp mới thay thế Quy chế phối hợp số 02.
Quy chế phối hợp mới được 2 bên ký kết gồm 3 chương, 11 điều, đề cập toàn diện và đầy đủ về căn cứ ban hành, phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng, nguyên tắc, nội dung, hình thức và phân công trách nhiệm của Bộ Công an và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội trong công tác phối hợp.
Cụ thể, Chương 1 của Quy chế gồm 3 điều, quy định về phạm vi điều chỉnh, đối tượng áp dụng; nguyên tắc phối hợp và tiêu đề của 6 nội dung phối hợp giữa Bộ Công an và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội.
Chương II, gồm 6 điều, quy định về trách nhiệm của Bộ Công an và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội trong từng nội dung phối hợp về: trao đổi, cung cấp thông tin, tài liệu liên quan đến chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của 2 cơ quan. Xây dựng văn bản quy phạm pháp luật về an ninh, trật tự có liên quan đến việc giám sát và thực hiện chính sách dân tộc. Kiến nghị với Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ các vấn đề về công tác dân tộc, chính sách dân tộc, chính sách có liên quan đến nhiệm vụ bảo vệ an ninh quốc gia, bảo đảm trật tự an toàn xã hội, đấu tranh phòng chống tội phạm vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi. Giám sát, khảo sát việc thực hiện các chủ trương của Đảng, chính sách pháp luật của Nhà nước về công tác dân tộc, chính sách dân tộc; các chương trình, kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi gắn với công tác bảo vệ an ninh trật tự, an toàn xã hội.
Đồng thời, hai bên phối hợp trong công tác cán bộ; bảo vệ chính trị nội bộ, an ninh mạng và bảo vệ bí mật nhà nước; bảo đảm an ninh, an toàn các sự kiện, hội nghị quan trọng và hoạt động đối ngoại do Hội đồng Dân tộc tổ chức. Tuyên truyền và xây dựng phong trào bảo vệ an ninh Tổ quốc ở vùng đồng bào dân tộc thiểu số và miền núi.
Về tổ chức thực hiện (Chương III của Quy chế), có quy định rõ hàng năm, Bộ Công an và Hội đồng Dân tộc của Quốc hội luân phiên chủ trì đánh giá kết quả phối hợp thực hiện Quy chế và xây dựng, thống nhất kế hoạch phối hợp cụ thể trong năm tiếp theo.
Nguyễn Hoàng
Theo Chinhphu
Công bố Nghị quyết của UBTVQH về công tác cán bộ Ủy ban Thường vụ Quốc hội vừa tổ chức Hội nghị công bố Nghị quyết về công tác cán bộ. Đại tướng Đỗ Bá Tỵ trao quyết định cho Thiếu tướng Nguyễn Minh Đức. Tại hội nghị, Đại tướng Đỗ Bá Tỵ, Phó Chủ tịch Quốc hội đã trao Nghị quyết số 808/NQ-UBTVQH14 của Ủy ban Thường vụ Quốc hội về việc phê...