Người rừng và con tê giác Việt Nam cuối cùng
Tôi được điều đi làm phóng viên thường trú ở vùng sâu vùng xa, tận cùng của tỉnh Lâm Đồng – nơi có loài tê giác sinh tồn.
Tôi biết cánh rừng nào nó ở, vũng sình nào nó hay về ăn đất khoáng…; tôi từng hạnh phúc dâng tràn khi nhìn thấy đống phân tươi của nó – chỉ dấu của sự sống sót… Cuối năm 2010, từ Đà Lạt nhận tin nó đã bị bắn hạ, con cuối cùng, tôi đau như niềm kỳ vọng của tôi vừa bị tước đoạt. Nhưng tôi biết người đau tê tái nhất cho cái chết của nó phải là Điểu K’Giang – bạn tôi.
Vâng, tôi tin chắc không phải các nhà động vật học, ông bộ trưởng tài nguyên và môi trường, hay chủ tịch tỉnh Lâm Đồng hay Đồng Nai, Bình Phước, hoặc giám đốc Vườn quốc gia Cát Tiên, mà là bạn tôi, Điểu K’Giang – một người Xtiêng sống trong rừng Cát Tiên mới là người đau đớn nhất, và đau suốt cả phần đời còn lại, sau cái chết tức tưởi của con tê giác cuối cùng ấy, đánh dấu thời điểm “tê giác chính thức tuyệt chủng ở Việt Nam”, theo thông báo nghiêm túc của Quỹ quốc tế Bảo vệ thiên nhiên – WWF.
Tri kỷ
Điểu K’Giang sống trong vùng rừng giáp ranh giữa 3 tỉnh Bình Phước, Lâm Đồng và Đồng Nai gọi chung là Cát Lộc hoặc Cát Tiên, quê hương của người Xtiêng nhiều trăm năm nay. Sắc dân Xtiêng sống đời người, tê giác sống đời thú, cộng sinh, an lành, loài nào có chỗ loài đó. Cho dù tê giác đã không còn, tôi cũng không thể bỏ bê Điểu K’Giang – người dạy cho tôi tình yêu hoang dã thật, nên tôi đi tìm anh.
Gặp, ôm tôi xong, anh bạn già 73 tuổi, không kịp hỏi tôi vợ con thế nào, hay để tôi hỏi gia đình anh lâu nay ra sao, mà lôi ngay cái thứ túc trực trong đầu trong tim, cái thứ quan trọng nhất, đeo đẳng nhất trong anh ra để báo tôi: “Con tê giác… chết rồi, còn đâu…”. Rồi anh kêu nó bằng tiếng mẹ Xtiêng: “Pai-ro-mhai, hết rồi!”.
Video đang HOT
Điểu K’Giang bên căn nhà lồ ô của mình.
Điểu K’Giang mà đã bảo hết tê giác là hết, còn chắc hơn cả các nhà khoa học ở Viện Sinh thái và Tài nguyên sinh vật quốc gia, hay WWF. Bởi các nhà khoa học quốc tế và cả hệ thống nghiên cứu sinh thái ở đất nước này còn “điều tra” tê giác thông qua… Điểu K’Giang. Giới khoa học biết tê giác qua các công cụ nghiên cứu, phân tích, giải phẫu, lý luận… Còn K’Giang biết tê giác bằng tâm hồn người trong cuộc, bằng hơi thở, tiếng nức nở của rừng, nghĩa là bằng cảm xúc, tri thức tự nhiên, dân gian… Sinh ra, lớn lên trong rừng Cát Tiên, K’Giang rành rọt đường đi lối lại của con tê giác.
Từng cánh rừng, thung lũng, đầm lầy ở Cát Lộc – nơi con tê giác đi lại – K’Giang đều thuộc như thuộc lòng bàn tay. K’Giang đánh hơi được mùi của con tê giác. Không ít lần anh trèo lên cây khi biết lát nữa nó sẽ đi qua. Và nhiều lần con tê giác khịt khịt mũi vì đánh được hơi người của K’Giang. Nhưng K’Giang và những con tê giác kia chung sống hòa thuận, nhiều lần ngắm nhìn nhau, trên cây và dưới đất. K’Giang cho biết tê giác là giống động vật to lớn hiền lành, ngày nằm nghỉ, tối đi ăn, bước đi từng bước, nó quá tử tế trong cuộc sống hoang dã, đến độ những lúc về vùng sình Bàu Chim để đẫm mình, tê giác nhường nhịn đến cả những bầy chim vịt…
Di ảnh
Bị con người rượt đến “cứ điểm” cuối cùng là rừng Cát Tiên này, tê giác sống như “ma”, hiếm ai giáp mặt được nó. Ngoài Điểu K’Giang, không ai có thể chứng kiến những sinh hoạt sâu sát như thế của tê giác trong rừng Cát Tiên. Người ta từng tranh luận loài tê giác của Việt Nam ở rừng Cát Tiên có giống tê giác ở Phi Châu hay tê giác Java ở Indonesia; một sừng hay hai sừng? K’Giang từ lâu đã bảo loài tê giác ở rừng quê anh nó có một sừng thôi, mình dài, nhưng thấp hơn con trâu, bước đi chậm rãi, lắc qua lắc lại cái mông, khịt khịt cái mũi… Thế đó, K’Giang mô tả con tê giác đơn giản, cụ thể, sinh động bằng con mắt nhìn trực tiếp, bằng cái tình “láng giềng” giao cảm giữa người với thú hoang.
Vì vậy, bất cứ đoàn quan chức chính quyền hay chuyên gia động vật trong hay ngoài nước nào muốn biết tê giác Việt Nam phải lội rừng tìm Điểu K’Giang trước. Duy nhất WWF, rồi sau nữa là Vườn quốc gia Cát Tiên sở hữu được một số ít những bức ảnh về tê giác Việt Nam, như những bằng chứng khoa học quý giá. “Bẫy” ảnh, vì không thể ngồi mà canh chụp được, bởi không biết năm tháng, ngày giờ nào giữa trời đất này con tê giác sẽ xuất hiện. Nhưng dễ gì chụp được loài thú hoạt động như “ma” này.
Các chuyên gia sinh thái và kiểm lâm Vườn quốc gia Cát Tiên đeo bám việc “bẫy” ảnh suốt nhiều năm trời. Rồi một ngày chợt lóe ra một giải pháp tuyệt vời: Chuyển giao kỹ thuật “bẫy” ảnh cho người hiểu con tê giác nhất. Vậy là từ đó K’Giang được tham gia các cuộc “bẫy” ảnh, rồi sau đó được giao luôn việc gắn “bẫy” ảnh lên cây, theo dõi, coi sóc chiếc máy “bẫy”. Nên có những cảm giác mà chỉ anh mới có, ví như lần anh đặt máy trên cây ven luồng đường tê giác đi, con tê giác ngang qua thấy vật lạ, dùng miệng đớp văng máy xuống đất.
Vì vậy, ngoài những bức ảnh huyền thoại do chuyên gia quốc tế thực hiện còn có những bức ảnh về con tê giác đã bị sát hại kia mà K’Giang là tác giả. Nhưng chụp được ảnh là giao máy, giao phim lại cho các tổ chức nên K’Giang giờ không có bức ảnh nào về tê giác cả. Con tê giác Việt Nam cuối cùng chỉ còn lại di ảnh trong hồ sơ của WWF, của Vườn quốc gia Cát Tiên, và trên mạng.
Ám ảnh
Điểu K’Giang bảo đến giờ trong đầu anh vẫn nhớ nguyên hình ảnh con tê giác cuối cùng. Lúc nó chưa bị hạ sát, thương yêu nó, K’Giang thường lặng thầm bảo vệ nó bằng mọi cách, trước hết là không bao giờ để mọi người biết đường nó đi lại, chỗ nó hay ngủ, đi ăn. Anh bảo bọc nó bằng bản năng tự nhiên, bằng cái tình “người cùng quê”, bằng cả tri thức rừng của riêng mình. Chỉ khi vườn quốc gia, kiểm lâm yêu cầu giúp đỡ các nhà khoa học anh mới đưa ra thông tin. Nên con tê giác ấy đã không chết ở rừng quê anh – sóc Bù Run, xã Phước Cát II; không ngã gục ở vùng sình lầy Bàu Chim, vì khi nó uống nước và đẫm sình là dễ bắn nhất.
Mà nó bị hạ sát ở rừng xa, tận bên rừng Tiên Hoàng, Gia Viễn – những xã khác trong huyện Cát Tiên, nơi ở của dân nhập cư mới vào từ Tây Bắc. Anh nói với tôi rằng đã “chết đứng” bên bìa rừng vào cái lúc thằng cháu họ Điểu K’Lích chạy về báo: “Chú Ba, con tê giác của chú chết rồi!”. Cộng đồng Xtiêng ở sóc Bù Run từ lâu đã xem con tê giác đó như của “riêng” của Điểu K’Giang vậy. K’Giang hỏi thằng cháu: “Sao chết?”. “Người ta đang đi lấy xương của nó. Nghe nói trong xương còn thấy viên đạn”.
Giá mà nó cứ sống ở khu vực Bàu Chim này, quanh rừng Bù Khiêu, Bù Run, Phước Sơn này, thì anh vẫn sẽ che chở cho nó được. “Ai bảo nó đi ăn xa quá!” – K’Giang ấm ức.
Từ hôm đó, Điểu K’Giang lặng người. Chán cuộc sống. Thất vọng xung quanh. Bỏ rẫy điều trên núi, về nhà nằm. “Nhưng nằm lại nhớ nó, nghĩ mãi nó”. Ngày hôm sau, anh muốn lội rừng đi qua vùng rừng bên Tiên Hoàng, chỗ con tê giác bị hạ sát, để nhìn đống xương nó. Nhưng nghĩ tới cảnh nó chỉ còn lại đống xương, càng cay xót thêm, nên thôi: “Thà nằm luôn trên giường cho… ít đau!”.
Đã hơn hai năm từ ngày con tê giác bị bắn hạ, thế mà giờ ngồi với tôi, K’Giang bảo giá mà nó cứ sống ở khu vực Bàu Chim này, quanh rừng Bù Khiêu, Bù Run, Phước Sơn này, thì anh vẫn sẽ che chở cho nó được. “Ai bảo nó đi ăn xa quá!” – K’Giang ấm ức. Ông bạn già của tôi trong sáng quá, chủ quan quá, cả hệ thống quyền lực còn không che chở được cho con tê giác, huống chi tấm thân gầy ngoài bảy mươi của bạn? Nó mà bị bắn chết ngay tại sóc Bù Run, khu Bàu Chim rừng già Cát Lộc này, có khi bạn phải tự tử vì ức, vì sự bất lực của mình chứ chẳng chơi.
Từ ngày con tê giác “ra đi”, ai gặp hỏi gì về tê giác, Điểu K’Giang cũng không nói. Anh lặng thinh đến giờ. Mỗi khi đi rừng, chỗ nào anh cũng cố nhìn, hy vọng có dấu vết một Pai-ro-mhai nào khác nữa không. Đã thế, K’Giang lại dựng căn chòi sơ sài bên bìa rừng để ở một mình, không muốn quay về làng nữa, nơi có căn nhà chính của anh cùng vợ con.
Hằng ngày nếu không đi nhặt điều, cắt rau núi cho mấy con heo, gà rừng thả rông ăn, thì K’Giang cũng lang thang vào rừng. Câu hát của một người bạn khác của tôi ở Trung Tây Nguyên, cao nguyên Dak Lak, Y Phôn K’Sor: “Tôi như con thú hoang, lang thang trong rừng sâu…”, sao cứ như vận vào anh chàng Điểu K’Giang ở miền cực cuối của Tây Nguyên là rừng Cát Lộc này. Cứ như tê giác cũng thành ma, nó ám vào anh, nó bắt anh không được quên nó.
Theo 24h
Đưa 500 bác sĩ trẻ về miền núi, hải đảo công tác
Ngày 22-1, Vụ Tổ chức cán bộ - Bộ Y tế đã thông báo dự thảo dự án thí điểm đưa bác sĩ trẻ tình nguyện về công tác tại miền núi, vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, trước mắt ưu tiên 62 huyện nghèo.
Theo đó, đối tượng được đưa về công tác tại các vùng khó khăn nói trên bao gồm những bác sĩ mới tốt nghiệp hoặc bác sĩ đã tốt nghiệp nhưng chưa chính thức làm việc tại một cơ sở y tế công lập nào. Khi tình nguyện về công tác tại các vùng khó khăn, bác sĩ nam phải công tác tối thiểu 3-5 năm, với bác sĩ nữ tối thiểu là 2-3 năm. Trong giai đoạn 1 (từ năm 2013 đến 2016), dự án đặt mục tiêu đưa được 500 bác sĩ trẻ về công tác tại 20 tỉnh có huyện nghèo, nhằm đáp ứng nguồn nhân lực là bác sĩ về các vùng khó khăn, cung cấp dịch vụ y tế chất lượng cho nhân dân ngay tại cơ sở
Theo ANTD
Sinh viên sẽ được thuê nhà của Nhà nước Công nhân làm việc tại khu công nghiệp, người thu nhập thấp, hộ nghèo; sinh viên, người khuyết tật, người già cô đơn, gia đình có khó khăn về nhà ở tại khu vực đô thị đều thuộc diện được thuê, mua nhà sở hữu Nhà nước. Bộ Xây dựng vừa hoàn chỉnh dự thảo Nghị định quản lý sử dụng nhà ở...