Người lao động phải chấp nhận làm bất cứ việc gì để mưu sinh
Đây là nhận định Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội Bùi Sỹ Lợi nêu ra tại diễn đàn Kinh tế Mùa xuân khi đề cập đến thực tế trên thị trường lao động, người lao động phải chấp nhận làm bất cứ việc gì để mưu sinh thay vì đợi việc tốt hơn.
TS. Bùi Sỹ Lợi nêu con số thống kê, đến thời điểm 31/12/2014, dân số cả nước là 90,7 triệu người; số người từ 15 tuổi trở lên là 70,06 triệu (chiếm 78,0% tổng dân số), trong đó có 54,4 triệu người thuộc lực lượng lao động. Lao động từ 15 tuổi trở lên đang làm việc trong các ngành kinh tế là 53,4 triệu người, tăng 1,56% so với năm 2013.
Ông Bùi Sỹ Lợi nhận định, vì cuộc sống mưu sinh, người lao động đang không có sự lựa chọn trong công việc của mình.
Cả nước đã có khoảng 1,2 triệu lao động thiếu việc làm (chiếm tỷ lệ 2,45%) và gần 1 triệu lao động thất nghiệp chiếm 2,08%. Tỷ lệ thất nghiệp chung theo điều tra ở mức rất thấp (1,81%).
Năng suất lao động xã hội năm 2014 theo giá hiện hành của toàn nền kinh tế ước tính đạt 3.515 USD/lao động. Dù năng suất lao động thực tế liên tục tăng trong thời gian qua, bình quân đạt 3,7%/năm trong giai đoạn 2005-2014 nhưng xếp hạng chung, Việt Nam chỉ bằng 1/18 năng suất lao động của Singapore; bằng 1/6 của Malaysia; bằng 1/3 của Thái Lan và Trung Quốc.
Ông Lợi nhận xét, quy mô lực lượng lao động có xu hướng tăng chậm làm giảm áp lực việc làm, trong khi nền kinh tế đang trong giai đoạn khôi phục nên tỷ lệ thất nghiệp biến động không nhiều. Nhưng vấn đề đáng lưu ý đối với thị trường lao động Việt Nam là năng suất lao động thấp và tiền lương, tiền công không cao.
Tình trạng thiếu việc làm, thu nhập giảm sút của người lao động sẽ kéo theo nhiều hệ lụy xã hội nghiêm trọng, nếu không có những giải pháp đối phó hiệu quả sẽ tiềm ẩn nguy cơ bất ổn xã hội. Đặc biệt, hiện nay, khu vực nông nghiệp, nông thôn không còn là “bà đỡ” có thể hấp thụ được số lượng người mất việc làm ở thành phố trở về thì nguy cơ bất ổn xã hội càng hiện hữu.
Điều này phần nào được giải thích bởi Việt Nam là một nước nông nghiệp, do kinh tế phát triển còn thấp nên mức sống của người dân chưa cao và an sinh xã hội chưa đầy đủ. Vì vậy, người lao động thường chấp nhận làm bất cứ loại công việc gì, kể cả những công việc có mức thu nhập thấp, bấp bênh, điều kiện làm việc không đảm bảo (việc làm không bền vững) nhằm nuôi sống bản thân và gia đình hơn là thất nghiệp dài để chờ đợi công việc tốt hơn.
Ông Lợi dẫn chứng vụ tai nạn sập giàn giáo tại dự án Formosa (Vũng Áng, Hà Tĩnh) vừa qua là một biểu hiện của việc người lao động không có lựa chọn công việc nào cho mình.
Video đang HOT
vụ tai nạn sập giàn giáo tại dự án Formosa là một biểu hiện của việc người lao động không có lựa chọn công việc nào cho mình. (Ảnh: Văn Dũng)
Đo lường giá trị lao động từ chuyện tiền lương, tiền công, Phó Chủ nhiệm UB Các vấn đề xã hội đề cập, dù đã qua 2 đợt cải cách tiền lương năm 1993 và 2004, bước đầu tách bạch tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh và khu vực hành chính sự nghiệp, tạo điều kiện đổi mới chính sách tiền lương khu vực sản xuất kinh doanh theo định hướng thị trường, nhưng mức tiền lương tối thiểu thấp vẫn mới chỉ đáp ứng đươc 70% nhu cầu cơ bản của người lao động. Mức lương này thấp hơn mức lương tối thiểu thực tế trên thị trường khoảng 20% và hiện nay mới đạt khoảng 45% mức tiền lương tối thiểu trung bình của khu vực ASEAN.
Năm nay, ngay từ quý I/2015 kinh tế đã có tín hiệu khởi sắc với tăng trưởng GDP đạt 6,03%, TS. Bùi Sỹ Lợi cho rằng, việc này sẽ tác động nhanh, làm tăng tính cạnh tranh trong thu hút nhân lực. Tuy nhiên, dù cơ hội việc làm xuất hiện ở nhiều ngành nhưng sự thiếu vắng lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật là một thách thức, nhiều công ty có xu hướng tìm kiếm lao động Việt Nam từ nước ngoài trở về.
Cùng quan điểm đánh giá năng suất lao động, chất lượng nguồn nhân lực của Việt Nam vẫn ở mức thấp nhất của Châu Á – Thái Bình Dương, PGS.TS. Nguyễn Thị Lan Hương (Viện Khoa học lao động và xã hội) cũng hi vọng kinh tế phục hồi sẽ giúp tạo việc làm tốt hơn. Tuy nhiên, ít lạc quan hơn, nữ chuyên gia cảnh báo, chuyển dịch cơ cấu việc làm vẫn rất chậm và tỷ lệ việc làm có thu nhập thấp vẫn sẽ chiếm tỷ lệ rất cao.
Bà Lan Hương phân tích, năm 2014, nền kinh tế tạo ra 53 triệu việc làm, tăng 801.000 việc so với năm 2013 (tương đương 1.53%). Thời kỳ 2010-2014, bình quân mỗi năm thị trường tạo thêm được 879.000 việc làm (1,69%), cao hơn tốc độ tăng lực lượng lao động. Sau 2 năm trì trệ do khủng hoảng kinh tế, việc gia tăng số việc làm của nền kinh tế trong năm 2014 cho thấy những tác động của quá trình phục hồi nền kinh tế.
Dù vậy, thời kỳ 2010-2014, trái với xu thế tăng trưởng kinh tế, thu nhập bình quân thang từ công việc chính của lao động tăng rất chậm, chỉ tăng 0,5%/năm (đạt 4,362 triệu đồng/người/tháng). Thu nhập bình quân thang từ công việc chính của lao động nữ thấp hơn của lao động nam và khoảng cách chênh lệch tiền lương của nữ/nam có xu hướng gia tăng (từ 91,2% năm 2010 so với 90,5% năm 2014).
Quý II/2014, trong số những người làm công ăn lương, 18,6% có thu nhập thấp (dươi 2,7 triêu đông/thang, tương ứng 2/3 mưc thu nhâp trung vi). Quy IV năm 2014, thu nhập binh quân thang của lao động nhóm ngành “nông-lâm nghiệp và thủy sản” vẫn thấp nhất, chỉ đạt 2,852 triệu đồng/người/tháng, bằng 58% so với ngành “công nghiệp-xây dựng” (là 4,242 triệu đồng/người/tháng) và bằng 64% của nhóm ngành “dịch vụ” (là 4,907 triệu đồng/người/tháng).
P.Thảo
Theo Dantri
Hệ quả của tham nhũng nhìn từ những vụ hối lộ ODA
Tham luận gửi đến Diễn đàn kinh tế mùa xuân (khai mạc vào sáng 21/4), TS Lê Đăng Doanh đã phải dùng nhiều động từ mạnh sau khi dẫn lại tuyên bố của đại diện JICA (Nhật Bản) là "sẽ không còn lối thoát" nếu "nổ" ra vụ tham nhũng nữa liên quan đến các dự án ODA.
Đề cập đến tham nhũng và những chi phí không chính thức với người dân, doanh nghiệp, TS Lê Đăng Doanh đi sâu vào phân tích từ môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Cụ thể, TS. Doanh khái quát, môi trường đầu tư kinh doanh của Việt Nam được xếp hạng thấp dưới trung bình và chậm được cải thiện, trong khi một số nước trong khu vực có tiến bộ đáng kể như như Malaysia và Thái Lan. Một nguyên nhân là sự yếu kém về thể chế và tham nhũng.
Các chỉ số về năng lực cạnh tranh GCI và chỉ số Môi trường kinh doanh, chỉ số Cảm nhận tham nhũng của Việt Nam đều ở mức thấp và chậm được cải thiện. Thậm chí, năm 2014, theo đánh giá của Ngân hàng thế giới (WB), Việt Nam tiếp tục tụt lùi trong xếp hạng về môi trường kinh doanh.
Báo cáo GCI năm 2014 - 2015 của Diễn đàn kinh tế thế giới cho thấy, chỉ số về đút lót trong xuất nhập khẩu tại Việt Nam xếp thứ 121 - thấp hơn rất nhiều so với xếp hạng thể chế chung. Xếp hạng về đút lót trong quyết định tư pháp ở vị trí 117 (cũng rất thấp). Chỉ tiêu về công khai trong xây dựng chính sách của Chính phủ cũng chỉ đạt mức 116...
"Không nghi ngờ gì nữa, yếu kém về thể chế và tham nhũng đã làm giảm năng lực cạnh tranh, làm môi trường kinh doanh của Việt Nam xấu đi" - TS. Lê Đăng Doanh viết.
Một phép đo khác để đối chiếu được dẫn ra là xếp hạng của tổ chức Minh bạch Quốc tế (TI) năm vừa qua cũng đánh giá, Việt Nam chỉ đạt vị trí 119/175 nền kinh tế. Tham nhũng, theo đó, rất phổ biến, không chỉ giới hạn đối với doanh nghiệp mà còn liên quan đến người dân khi sử dụng dịch vụ công.
Sau 2 vụ án Đại lộ Đông-Tây và JTC, đại diện JICA (Nhật Bản) tuyên bố, sẽ không còn lối thoát cho việc cấp ODA cho Việt Nam nếu có vụ tiêu cực thứ 3.
Vị chuyên gia kinh tế này cũng liên hệ việc đánh giá này với những sự kiện thời sự đang diễn ra. Nhật Bản thông qua tổ chức JICA, Hàn Quốc và Ngân hàng Thế giới đã phát hiện những dấu hiệu tham nhũng, đút lót ở Việt Nam liên quan đến quá trình nhận thầu và đấu thầu xây dựng kết cấu hạ tầng ở Việt Nam.
Sau vụ án đưa nhận hối lộ tại Đại lộ Đông-Tây, vụ JTC, trích lời Trưởng đại diện JICA tại Việt Nam là nếu để xảy ra vụ tham nhũng thứ 3 với các dự án ODA của Nhật Bản, người dân Nhật Bản sẽ lên tiếng buộc Chính phủ dừng cấp nguồn vốn vay này cho Việt Nam, "nếu có vụ thứ ba sẽ không có lối thoát", ông Doanh cảnh báo, "nước bạn đã mất kiên nhẫn đối với tình trạng tham nhũng kéo dài, lặp đi lặp lại ở Việt Nam".
Tương tự như vậy, các phát hiện của phía Hàn Quốc về tham nhũng và đút lót của tập đoàn POSCO trong quá trình tham gia đấu thầu ở Việt Nam, nhưng quan chức Việt Nam đã tuyên bố ngay là vụ việc này không liên quan đến Việt Nam.
Gần đây nhất, Ngân hàng thế giới đã cấm không cho tập đoàn Louis Berger Group (LBG) của Mỹ tham gia đấu thầu một năm do có tham nhũng ở hai dự án ở Việt Nam, là dự án Đường Giao thông Nông thôn thứ ba và Dự án Đầu tư kết cấu hạ tầng ưu tiên ở Đà Nẵng.
Chỉ ra tác động của tham nhũng đối với nỗ lực phát triển kinh tế, ông Doanh tính toán, nếu chỉ số Nhận thức tham nhũng (CPI) của Việt Nam tăng lên 1 đơn vị, mức tăng trưởng trong giai đoạn 2000-2012 vừa qua đã có thể tăng lên bình quân 0,23%/năm.
Nhận định này trùng với nghiên cứu của Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI) đã đưa ra là, nếu các khoản chi phí không chính thức ít hơn và do đó nếu các doanh nghiệp giảm số tiền chi trả cho các khoản không chính thức, thì nguồn lực này sẽ có thể được chuyển hướng vào đầu tư và tạo việc làm.
Cụ thể, nếu giảm 1% đơn vị tần suất tham nhũng (tần suất tham nhũng được đo lường bằng tỷ lệ phần trăm doanh nghiệp thừa nhận có chi trả các khoản chi phí không chính thức), đầu tư tư nhân sẽ tăng 3,7%, việc làm tư nhân sẽ tăng tăng 1%, và thu nhập bình quân đầu người tăng 1,5%.
Nếu giảm 1% đơn vị gánh nặng tham nhũng (tỷ lệ chi phí không chính thức trên thu nhập của doanh nghiệp), đầu tư tư nhân sẽ tăng 6,4%, số việc làm tư nhân sẽ tăng 1,8%, và thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng 2,3%.
Đồng thời, nếu tăng 1% đơn vị tính dự báo của tham nhũng (đo lường bằng tỷ lệ % doanh nghiệp cho biết rằng họ nhận được dịch vụ mong muốn khi trả chi phí không chính thức), đầu tư tư nhân sẽ tăng 3,6%, việc làm tư nhân sẽ tăng 1% và thu nhập bình quân đầu người sẽ tăng 1,9%.
Hệ quả lâu dài khác của tình trạng tham nhũng được TS. Lê Đăng Doanh chỉ ra là rất nhiều doanh nghiệp có xu hướng tham gia vào tham nhũng do họ coi đó là một phần của luật chơi, chính vì vậy việc phá vỡ vòng luẩn quẩn này chắc chắn sẽ mang lại lợi ích cho các doanh nghiệp, lĩnh vực kinh doanh và nền kinh tế. Việc làm này đòi hỏi phải có sự chung sức từ cả phía doanh nghiệp và chính quyền để có thể tạo ra được những khích lệ và hình phạt đúng đắn (phương pháp tiếp cận củ cà rốt và cây gậy) nhằm tạo ra một sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp cạnh tranh lành mạnh.
P.Thảo
Theo Dantri
"Kìm kẹp" y tế tư nhân, bệnh nhân là người chịu thiệt Trong bối cảnh y tế công đang "đuối sức", sự phân biệt đối xử với y tế tư nhân đã triệt tiêu tính cạnh tranh của thị trường, khiến người bệnh phải chịu thiệt. "Mở cửa" cho y tế tư nhân là giải pháp cần kíp mang lại lợi ích cho toàn xã hội. Đó là ý kiến chung của các đại biểu...