Ngôi làng ẩn sâu trong ‘thâm sơn cùng cốc’: kì quái và bí ẩn khiến dân địa phương ‘tái mặt’
Khi nhắc đến ngôi làng ẩn sâu trong ‘ thâm sơn cùng cốc’ này, từ đầu tiên mà người ta nghĩ đến đó chính là ‘kỳ quái’.
Thôn Kim Gia, huyện Đông Chí, thành Trì Châu, An Huy ( Trung Quốc) được bao quanh bởi những ngọn núi và nằm trong một thung lũng tách biệt với thế giới bên ngoài. Nơi đây trông giống như một ngôi làng trên núi bình thường nhưng thực ra bên trong ẩn chứa rất nhiều bí ẩn.
Thực ra có rất nhiều người biết địa danh thôn Kim Gia nhưng tuyệt nhiên không ai rõ về tình hình trong làng. Rốt cuộc ngôi làng này ẩn chứa những bí mật gì? Tại sao thông tin về những người ở đây đều bị giấu kín? Vì sao họ phải làm như vậy?
Ngôi làng bí ẩn, tuyệt nhiên không ai hé lời về một điều
Để khám phá bí ẩn được cất giấu, các chuyên gia đã đến tận thôn Kim Gia để điều tra và thăm quan, với hy vọng tìm hiểu những bí mật của ngôi làng cổ này.
Khi các chuyên gia đến nơi, khung cảnh trước mắt họ là nhà cửa lác đác, ngõ ngách nối liền cả làng, thỉnh thoảng lại thấy một số người già và trẻ em.
Trong ngôi làng này có rất nhiều tòa nhà cổ kính, ít nhất cũng phải là tòa nhà vào thời nhà Minh và nhà Thanh, hình dáng cũng rất độc đáo. Hơn nữa, những công trình kiến trúc này dù đã trải qua năm tháng nhưng vẫn không hề có dấu hiệu mục nát và vẫn được bảo quản rất tốt.
Ngôi làng này không chỉ có nhiều tòa nhà cổ kính mà còn có rất nhiều thứ khó hiểu bên ngoài. Ví dụ, có những tàn tích và những bức tường vỡ ở khắp mọi nơi. Thấy khách lạ đến, cư dân trong làng cũng niềm nở mời các chuyên gia đến thăm nhà, không khí cả làng không bí bách như lời đồn đại.
Ngôi làng cổ kính ở An Huy. Ảnh: Internet
Trong khi trò chuyện, dân làng tỏ ra rất hiếu khách và thoải mái. Nhưng khi được hỏi về nguồn gốc của những người ở đây, đột nhiên sắc mặt của những người này đã đổi khác, thậm chí họ còn tỏ ý không chào đón nhóm chuyên gia. Nhận thấy sự khác thường, các nhà khoa học quyết điều tra tìm rõ ngọn ngành.
Càng đi sâu càng thấy có “uẩn khúc”
Cảnh tượng trước mắt khiến các chuyên gia càng ngày càng tò mò về nguồn gốc ở Kim Gia: Không thể có một ngôi làng bình thường lại có đường nét kiến trúc lạ như vậy. Điều này không phù hợp với đặc điểm phát triển của làng truyền thống.
Hơn nữa, các chuyên gia cũng tìm thấy một tòa nhà rất cao ở phía ngoài vì nó cũ hơn so với những ngôi nhà khác. Không chỉ vậy, kết cấu của nó còn kỳ quái hơn nữa, trên tường thành có đầy những lỗ thủng lớn nhỏ, trông giống như là để phòng thủ.
Tất cả các câu hỏi vẫn còn đó nhưng tuyệt nhiên không thể tìm được câu trả lời từ dân làng, vì vậy các chuyên gia đã tìm lãnh đạo các phòng ban liên quan của huyện Đông Chí, hy vọng sẽ học được tư liệu liên quan đến lịch sử ngôi làng.
Tề Tự Lập là giám đốc cục du lịch huyện Đông Chí, sau khi biết được yêu cầu của các chuyên gia, ông đã tiết lộ một số thông tin về ngôi làng này. Theo ông, những thông tin về làng Kim Gia rất ít. Dẫu vậy, họ vẫn có thể tìm ra một ra một chút manh mối.
Con đường dẫn đến mọi ngóc ngách trong làng. Ảnh: Internet
Ngôi làng này khá đặc biệt. Ở đây có hơn 160 hộ gia đình và hơn 780 nhân khẩu, gần 90% trong số đó là họ Kim. Nhiều người cùng một họ sống ở quy mô như vậy là rất hiếm. Thêm vào đó, ngôi làng này rất ít khi giao tiếp với thế giới bên ngoài, thậm chí người ở đây còn không kết hôn với người ngoài.
Video đang HOT
Hơn nữa, theo hồ sơ, lịch sử của làng Kim Gia có thể bắt nguồn từ 1000 năm trước, điều này càng khẳng định suy nghĩ của các chuyên gia rằng chắc chắn phải có một số bí mật “không thể nói ra”.
Cuốn gia phả hé lộ bí mật
Để giải đáp sự kỳ lạ này, các chuyên gia cùng với Giám đốc Cục Du lịch huyện Đông Chí đã đến làng Kim Gia để điều tra lại.
Sảnh thờ phụng tổ tiên ở ngôi làng trông rất trang nghiêm và tráng lệ, phảng phất một bầu không khí lạ thường. Theo dân làng thì đây là công trình có lịch sử lâu đời nhất, tiêu chuẩn cao nhất và là tòa nhà tinh tế nhất ở làng.
Sau cùng, một cuốn gia phả giải đáp bí ẩn. Một số cấu trúc bên trong sảnh tổ tiên này trông khác thường, với đủ loại chạm khắc đá tinh xảo, và cách bài trí theo phong cách hiên mở. Cấu trúc của nơi này lại không giống với những ngôi nhà trong làng.
Điển hình là cặp quá giang và cây cọc, chiếc cột đá hình móng ngựa, chiếc xà ngang có hình cung tên đối xứng nhau hướng lên trời. Với tư cách là giám đốc du lịch, Tề Tự Lập đã đi từ nam ra bắc trong nhiều năm, và đã nhìn thấy đủ loại phong cách kiến trúc, nhưng nếu hỏi kiểu kiến trúc này là gì thì ông cũng khó lòng giải đáp.
Tổ tiên của làng Kim Gia được hé lộ. Ảnh: Internet
Tuy nhiên, Giám đốc Tề đã suy luận từ kinh nghiệm của bản thân trong nhiều năm rằng có thể tổ tiên của những người dân ở đây là một dân tộc thiểu số. Sau đó, nhóm chuyên gia tìm đến nhà của người trưởng làng họ Kim.
Là người đứng đầu của một ngôi làng có lịch sử lâu đời, những điều mà ông biết về ngôi hẳn đương nhiên sẽ không ít. Tuy nhiên, lão Kim cũng như những người dân làng trước, vẫn từ chối tiết lộ những bí mật về lịch sử của làng Kim Gia cho cả nhóm. Thấy việc tìm hiểu lại đi vào bế tắc, Giám đốc Tề đã nói chuyện riêng với người trưởng làng và thuyết phục ông tiết lộ thông tin.
May mắn thay, cuối cùng người này cũng đổi ý và cho nhóm chuyên gia mượn cuốn gia phả. Mọi người hoàn toàn ngỡ ngàng khi ở đó ghi lại rằng dân làng Kim Gia là hậu duệ của người Hung Nô, kết quả này nằm ngoài dự đoán của mọi người.
Hung Nô là một thuật ngữ chung để chỉ những người du mục phương bắc cổ đại, tồn tại vào thời Xuân Thu. Sức mạnh của họ đạt đến đỉnh cao vào thời nhà Hán. Sau này, khi thời thế thay đổi, những người còn sót lại lang bạt khắp nơi. Trong đó, một nhóm người đã chọn thôn Kim Gia để dừng chân. Để bảo vệ thế hệ mai sau, những người đi trước đã để lại lời dặn không được tiết lộ thân thế. Không ngờ di nguyện đó đã được giữ kín suốt cả nghìn năm.
Núi Tổ Ba Vì và bí ẩn đền thờ Thánh Tản Viên
Trong tín ngưỡng tâm linh dân gian, Việt Nam có Tam Tổ: Địa Tổ, Thủy Tổ và Sơn Tổ là núi Ba Vì, ở Sơn Tổ có một ngôi đền thờ Sơn Tinh gọi là Đền Thượng.
Sơn Tổ, nơi cư ngụ của Sơn Tinh
Dãy núi Ba Vì có diện tích không rộng nhưng khá cao và độ dốc lớn. Núi có 3 ngọn nằm trên một khối gồm: Đỉnh Vua cao 1.296m, Tản Viên cao 1.281m và Ngọc Hoa cao 1.120m, gắn với truyền thuyết Sơn Tinh. Mặc dù tên núi là Ba Vì nhưng dân gian gọi là núi Tản Viên.
Tản Viên Sơn linh thiêng đất Việt. (Ảnh: Internet)
Trong Dư Địa Chí, cuốn sách được Nguyễn Trãi soạn trong 10 ngày làm "giáo trình" dạy vua Lê Thái Tông, viết rằng: " Núi Tản Viên ấy là núi Chủ (Tổ) của nước Nam ta đó".
Hình thế của Tản Viên vô cùng độc đáo, khác hẳn với các quả núi ở Đại Việt. Theo sách Lĩnh Nam chích quái của Trần Thế Pháp (đời Trần) thì núi Tản Viên nằm ở phía tây kinh đô nước Nam Việt, lên cao núi thắt lại rồi xòe ra như cái ô nên có tên là Tản Viên.
Núi "sừng sững tráng lệ, ba đỉnh đứng dàn hàng, cao vút như trong bức họa", và Sơn Tinh liền "lên tận đầu ngọn Vân Mộng (tên ban đầu của Tản Viên) mới lấy đó làm nơi cư ngụ".
Cao Biền cũng bó tay
Sách Lĩnh Nam chích quái kể rằng, thế kỷ thứ 9 thời Bắc thuộc, Cao Biền - một tướng tài của nhà Đường am hiểu và cực giỏi phong thủy - từng dùng thuật trấn yểm ở chân núi Tản Viên.
Ảnh minh họa Cao Biền bay trên diều giấy tìm nơi trấn yểm.
Để đạt được mục đích Cao Biền dùng "diệu kế" quen thuộc. Ông ta cho khiêng kiệu đến chân núi để dụ Sơn Tinh ra bằng chiêu thức vẫn sử dụng, tức là dùng cô gái đồng trinh chuẩn bị mâm cỗ để mời thần linh (ở đây là Sơn Tinh nhập xác ăn cỗ), sau đó sẽ chém đầu cô gái cũng là giết chết Sơn Tinh.
Nhưng lần này, Sơn Tinh lợi hại ở chỗ đã hóa thân thành mây ngũ sắc chuẩn bị nhập vào cô gái lại bay lên. Nhìn lên trên cao, Cao Biền thấy rõ Sơn Tinh vén mây ra và nhổ một bãi nước bọt xuống mâm cỗ.
Mưu kế bất thành Cao Biền chỉ còn biết than: " Chỗ này thần linh rất thiêng, ta không trừ được, tất có ngày ta phải cuốn gói về nước thôi". Cao Biền không biết Tản Viên chính là điểm khởi phát của trục Long Mạch thần đạo.
Trong quan niệm tâm linh của phương Đông thì "Sơn bất tại cao, hữu thần tắc linh" (nghĩa là núi không phải chỉ do cao, cứ có thần (tiên) là núi thiêng). Từ quan niệm đó có thể dễ dàng cắt nghĩa vì sao Tản Viên thấp hơn núi Tam Đảo nhưng dân gian lại nói "Nhất cao là núi Tản Viên/Thứ ba Tam Đảo, thứ nhì Độc Tôn".
Vì thiêng nên sức lan tỏa của Tản Viên Sơn Thánh rất rộng lớn. Bởi thế dân gian mới xếp Thánh Tản đứng đầu trong bốn vị thánh bất tử ở Việt Nam gồm: Thánh Tản Viên, Thánh Gióng, Chử Đồng Từ và Mẫu Liễu Hạnh.
Vua Minh cũng đem lễ sang tế thần
Không biết Tản Viên Sơn Thánh lưu truyền trong tâm thức dân Việt từ bao giờ nhưng trong Đại Việt sử ký toàn thư có thông tin về núi Tản: "Vào năm 1073 trời mưa lớn liên tục, vì vậy hoàng đế Lý Nhân Tông đã cho rước tượng Phật từ chùa Pháp Vân về kinh đô để cầu mưa tạnh. Hoàng đế cũng cho cúng thần núi Tản Viên".
Núi thiêng Ba Vì nhìn từ xa. (Ảnh: Internet)
Năm 1449, hạn hán diễn ra nhiều nơi, mất mùa dân đói kém nên vua Lê Nhân Tông đã sai Tham tri Bùi Cầm Hổ, Lễ bộ lang trung Nguyễn Cảnh đi cầu dảo ở núi Tản Viên.
Khi núi Tản Viên bị lở, vua Lê Kinh Tông cho chép vào Đại Việt sử ký toàn thư. Điều đó cho thấy Tản Viên vùng núi địa linh mang tầm quốc gia.
Thậm chí khi con trai của Lê Quý Đôn là Quý Kiệt dự kỳ thi năm 1775, ngoài nhờ Đình Trung làm bài hộ, Lê Quý Đôn còn "táng trộm mả tổ ở cấm địa tại sơn phận Tản Viên".
Triều Nguyễn, đời vua Minh Mạng sai đúc Cửu Đình làm biểu tượng cho uy thế và sự bền vững của vương triều đã cho khắc hình núi Tản Viên vào Thuần Đỉnh (cao 2,32m, nặng 1.950 kg) cùng với cửa Cần Giờ (nay thuộc Thành phố Hồ Chí Minh) và sông Thạch Hãn (nay thuộc tỉnh Quảng Trị). Năm 1850 Tản Viên Sơn Thánh còn được vua Tự Đức lưu vào điển lễ tế tự của quốc gia.
Núi Tản Viên không chỉ thiêng ở nước Việt mà tiếng tăm còn bay sang cả phương Bắc, Đại Việt sử ký toàn thư chép: "Năm Canh Tuất, Thiện Khánh năm thứ 1 (1370)... Mùa xuân, tháng Giêng vua Minh (Trung Quốc) tự làm bài chúc văn sai Diêm Nguyên Phục, đạo sĩ cung Triều Thiện đem lễ là trâu và lụa đến tế thần núi Tản Viên và thủy thần sông Lô".
Công sứ Pháp xây lại đền
Về dựng đền thờ Sơn Tinh ở núi Tản Viên, Đại Việt sử ký toàn thư chép: " Mùa thu, tháng 7 năm 1145 vua Lý Anh Tông sai dựng đền thờ thần núi Tản Viên". Tuy nhiên không thấy sử chép việc trùng tu đền thế nào.
Cổng lên đền Thượng. (Ảnh: Internet)
Đầu năm 1902, khi mới nhận chức ở tỉnh Sơn Tây, công sứ Pháp là Theodore Muselier muốn khám phá núi Ba Vì nên ông đã tổ chức một đoàn leo núi thám hiểm. Từ chân núi lên độ cao 600m đoàn theo đường mòn mà người Dao cư ngụ ở lưng chừng núi vẫn đi, nhưng từ cao độ 600m trở lên thì cây cối và dây leo chằng chịt không có đường mòn.
Muselier không nản, ông cho phát cây mở đường, băng qua thác và suối bất chấp bị côn trùng cắn và thú dữ gầm gừ. Sau mấy ngày vất vả, gian nan, nguy hiểm tính mạng đoàn thám hiểm được trả công. Họ đã lên được đỉnh Tản Viên và thấy Đền Thượng là đống nát.
Sau này trong hồi ký, Muselier đã bộc bạch suy nghĩ của ông ta: " ...Họ đã huy động bao nhiêu người để xây dựng ngôi đền? Đường đi vô cùng khó khăn, rất hiểm trở, nguy hiểm, họ mất bao nhiêu thời gian để vận chuyển vật liệu? Ngoài sức người và sức ngựa còn có phương tiện nào tham gia vào việc này? Rồi tôi miên man nghĩ về vị Thánh được thờ trong đền".
Sau chuyến thám hiểm Muselier cho xây lại đền. Việc đầu tiên, ông cho chặt cây, xếp đá làm đường. Và con đường này được ghi trên bản đồ tỷ lệ 1/100.000 bắt đầu từ trại lính ở chân núi men theo phía sông Đà qua eo núi giữa đỉnh bắc và đỉnh trung tiếp đó men theo sườn núi phía đông để lên đỉnh Tản Viên.
Để vận chuyển vật liệu, Muselier đã sử dụng sức lực của tù nhân, bắt họ phải gùi từng tảng đá, túi cát bước trên con đường mới mở còn các gốc cây nhọn và đá mấp mô. Muslier đã trưng dụng một thợ cả chuyên xây dựng đình đền và nhà ở trong vùng chỉ đạo những người thợ để xây một ngôi đền nhỏ. Cuối năm 1902, ngôi đền hoàn thành. Việc này được ghi lại trong một tấm bia ở chùa Vị Thủy (thị xã Sơn Tây).
Năm 1942, chính quyền Pháp ở Đông Dương đã cử một đội khảo sát, đo đạc vẽ thiết kế để xây dựng khu nghỉ dưỡng ở độ cao trên 1.000m. Nhóm này thấy ngôi đền do công sứ Muselier xây từ 40 năm trước giờ chỉ là đống vụn nát của gỗ và đá. Chính quyền tỉnh Sơn Tây không xây lại đền nhưng cho làm lại con đường mà Muslier đã mở.
Đền Thượng ngày nay
Ban thờ Đức Thánh Tản Sơn Tinh trong đền Thượng. (Ảnh: Internet)
Năm 1993, Vườn Quốc gia Ba Vì đã xây một ngôi đền nhỏ trên tàn tích cũ. Lưng tựa vào vách núi, mặt quay về hướng nam. Chính điện có bức hoành phi với bốn đại tự Tản Lĩnh Linh Thần. Công trình do kiến trúc sư Hoàng Đạo Kính thiết kế.
Năm 2008, đền Thượng, Trung và Hạ được Nhà nước công nhận là Di tích văn hóa cấp quốc gia. Năm 2010, kỷ niệm 1.000 năm Thăng Long - Hà Nội, Ủy ban nhân dân thành phố Hà Nội xây đền mới với qui mô lớn hơn: có nhà thủ từ, nhà sắp lễ, nghi môn, am hóa vàng. Hai cột bên ngoài có đôi câu đối:
Núi Tản tựa trời cao, ba đỉnh lừng danh từ vạn cổ
Sông Đà trừ thác dữ, một dòng rực sáng đến mai sau
Ngày nay Đền Thượng không chỉ là địa chỉ tâm linh mà còn là điểm du lịch nổi tiếng của cả nước.
Giải mã bí ẩn về những ngôi mộ cổ thoắt ẩn thoắt hiện giữa sương khói Hồ Tây Lúc nước lặng như tờ, thì rõ mồn một giữa Hồ Tây là những ngôi mộ, đã nhuốm màu thời gian lộ hẳn lên khỏi mặt nước. Phải nói rằng, hiếm có nơi nào quy tụ nhiều truyền thuyết và thần thoại như ở Hồ Tây, mà mỗi truyền thuyết, thần thoại lại gắn liền với một địa danh trên hồ. Nếu dạo...