Ngôi làng 10 năm không có đám cưới
Trong vòng 10 năm, dân số trong làng giảm xuống chỉ còn một nửa, trường học, khu vui chơi thiếu bóng người… Đó là tình trạng ở thôn Hồng Lam (xã Xuân Giang, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh).
Ngày xưa đông đúc
Đứng trên cầu Bến Thủy (TP.Vinh, Nghệ An) nhìn xuống, làng trông như một ốc đảo mọc lên ngay giữa dòng Lam thơ mộng. Dù chỉ cách thành phố Vinh vài trăm mét nhưng để đến được làng, người ta phải ngược về thị trấn Nghi Xuân cách đó khoảng 10 km rồi đi đò vượt sông rồi vòng lại.
Những người già cho biết làng đã có lịch sử 300 năm, khi xưa từng là nơi buôn bán tấp nập bởi địa thế thuận lợi cho tàu bè có thể cập bến ở mọi hướng. Làng từng nổi tiếng với đặc sản rươi (một loại sinh vật sống trong lòng đất, chỉ bơi ra sông một lần duy nhất trong năm, là món ăn nhiều người ưa thích), với địa danh bến Giang Đình từng đi vào câu ca: “Ai về bến nước Giang Đình / Nhớ mùa vỏ quýt cho mình muốn rươi”.
Có địa thế thuận lợi nên trong phong trào cách mạng 1930 – 1931, Hồng Lam là nơi nổi dậy cướp chính quyền đầu tiên của tỉnh Nghệ Tĩnh (cũ). Trong kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ, làng cũng là nơi quân ta tập kết, giấu đạn dược, lương thực, tránh sự uy hiếp của kẻ thù.
Con đò này là “cầu nối” duy nhất giữa làng với thế giới bên ngoài
Những năm 1980, dân số trong làng còn rất đông đúc, khoảng hơn gần 2000 người, chủ yếu gắn bó với công việc chài lưới. Xóm trưởng Trần Đình Hòa cho biết, sau cơn lũ lịch sử xảy ra vào năm 1988 và đặc biệt là thời điểm cầu Bến Thủy được hoàn thành đưa vào hoạt động nên việc đi lại bằng tàu thuyền không còn được sôi đông như xưa, dân bắt đầu ồ ạt kéo nhau di cư lên bờ, chủ yếu vào các tỉnh phía Nam làm ăn. Chỉ trong vòng 3 năm (1988 đến 1991), làng đã lập một thành tích “đáng nể” khi dân số giảm nhanh, chỉ còn khoảng 1500 người. Người đi sau ngó người đi trước và theo nhau, đến nay làng chỉ còn lại khoảng hơn 600 nhân khẩu. ông Hòa nói: “Đó là con số theo đăng ký hộ khẩu, còn con số thực cư trú thì có thể còn ít hơn bởi nhiều người đang có hộ khẩu ở đây nhưng quanh năm đi làm ăn xa”.
10 năm không đám cưới
Dân bỏ làng mà đi nên 10 năm nay, làng tiếp tục lập một kỷ lục khác là không hề có một đám cưới. Một người dân cho biết: “Năm tôi 12 tuổi thì chứng kiến đám cưới của cô Tư con bà Nguyệt xong, rồi từ ấy đến nay không thấy thêm đám cưới nào nữa”. Làng có Trạm Y tế nhưng chỉ có duy nhất một chị hộ sinh suốt 10 năm nay rơi vào cảnh “thất nghiệp” do chẳng có ai sinh đẻ.
Lâu lâu lại thấy một gia đình bán nhà, cuốn tài sản mang đi nên trường học cũng neo dần người. Từ một ngôi trường với gần 300 học sinh của 2 khối THCS và Tiểu học, nay chỉ còn lại vỏn vẹn 37 học sinh của khối Tiểu học. Cô giáo Nguyễn Ngọc Minh, một trong 8 giáo viên dạy học ở thôn Hồng Lam cho biết: “Lớp học nhiều nhất chỉ khoảng 8 người, lớp ít thì 4 người. Chúng tôi đều là những giáo viên sống bên kia sông và mấy chục năm rồi ngày nào cũng lênh đênh trên 4 chuyến đò đi dạy học. Thế nhưng vất vả, hiểm nguy chúng tôi không sợ mà chỉ sợ cảnh lớp học teo tóp dần, có nguy cơ trường phải đóng cửa…”
Nhiều năm trước kia làng sống bằng nghề trồng cói nhưng từ nhiều năm nay diện tích đất nông nghiệp ngày càng bị thu hẹp bởi sóng sông Lam khoét sâu nên nghề mai một dần. Giờ dân làng chỉ còn theo những công việc như đánh lưới, muối rươi, tận dụng chút đất còn lại sản xuất hoa màu. ông Cao Xuân H., một người dân trong làng nói: “Cứ mưa to là nước ngập. Khổ nhất vẫn là khi đau ốm bệnh tật vì để đưa người ốm sang sông chữa bệnh có khi phải mất cả ngày trời”.
Video đang HOT
Theo giải thích của những người dân làng, giao thông trở ngại là nguyên nhân dẫn đến thực tế dân bỏ làng đi. “Giao thông khó khăn, đi lại bất tiện, nên người ta chán làm ăn, chán sinh sống, và muốn lên bờ để có một cuộc sống thuận lợi hơn”, một người dân nói.
Nguy cơ “xóa sổ”
Với những điều kiện khó khăn như vậy, lẽ ra nơi đây phải được quan tâm đầu tư nhiều hơn nhưng có một thực tế là nơi đây người dân không được ưu đãi bất cứ điều gì. Họ không được gọi là vùng đặc thù hay vùng sâu vùng xa, mà thuộc KV2 – NT như bao vùng khác ở bên kia sông. Các cô giáo dạy học ở đây luôn phải đối mặt với nguy hiểm rình rập ở những chuyến đò cũng than phiền rằng họ không có thêm bất cứ chế độ hỗ trợ gì khác.
Ông Trần Văn Trường, Chủ tịch UBND xã Xuân Giang cho biết: “Do địa thể quá cách trở nên địa phương cũng khó để có thể quan tâm thường xuyên đến ngôi làng. Chỉ khi mưa to bão lớn, xã mới dám đề nghị huyện cho thuyền lớn đến đưa dân vào bờ, tránh nguy cơ làng bị cuốn trôi hoàn toàn”.
Giao thông đi lại khó khăn, trong khi mỗi năm theo ước tính làng bị khoét sâu trung bình 100m/năm bởi sự tàn phá của những con sóng dữ sông Lam. Không khó để lý giải thực trạng vì sao người ta ồ ạt rời khỏi ngôi làng này. Và tất nhiên, ngôi làng với lịch sử 300 năm hình thành này đang đứng trước nguy cơ bị “xóa sổ”.
Theo Đời sống pháp luật
Ngôi miếu thờ 20 hành khách bên dòng Lam giang
Đã 2 tháng trôi qua kể từ ngày đau thương nhất trong lịch sử lũ lụt miền Trung: một chiếc xe khách bị cuốn trôi, 20 người phải bỏ mạng. Chiếc miếu thờ được dựng bên bờ sông Lam như nhắc nhở về một nỗi đau thương mất mát khôn cùng.
Những ngày đầu năm 2011, chúng tôi trở lại dòng Lam, nơi đây vào đầu tháng 10/2010 đã xảy ra vụ lũ cuốn xe khách định mệnh, lấy đi sinh mạng của 20 con người. Một nỗi khắc khoải cứ bám lấy những tài xế xe khách mỗi khi đi ngang qua đây. Rất nhiều tài xế và hành khách mỗi khi qua đây đều dừng lại thắp nén hương tưởng nhớ những người xấu số.
Chiếc miếu thờ và ông chủ quán
Sông Lam ngày đầu năm mới 2011, nước sông nhuộm một màu đỏ quạch của ráng chiều, dòng nước lững lờ trôi, lặng lẽ bồi đắp phù sa cho hai bờ như thể nó đã hoàn toàn quên sạch ký ức đau thương mới cách đây vẻn vẹn 2 tháng.
Một ngôi miếu thờ đã được dựng lên chính nơi lực lượng chức năng trục vớt chiếc xe khách cùng thi thể các nạn nhân
Trong số 20 hành khách bỏ mạng trên dòng Lam, có hai thi thể đã vĩnh viễn nằm lại lòng sông, hòa tan thành những hạt phù sa màu mỡ bồi đắp cho ruộng đồng.
Chính nơi lực lượng chức năng trục vớt chiếc xe khách bị nạn và tiến hành khâm liệm thi thể của các nạn nhân xấu số, một chiếc miếu thờ đã được dựng lên. Những nén hương thơm tưởng nhớ linh hồn các nạn nhân đỏ suốt ngày đêm. Một chiếc xe khách biển số 47 dừng lại. Hành khách trên xe lặng lẽ xuống, đến bên miếu thờ thắp những nén hương với gương mặt thành kính.
Với mong muốn để linh hồn các nạn nhân đỡ cô đơn, người đàn ông này đã dựng lên chiếc miếu thờ chung
Anh Nguyễn Văn Ninh - huyện Krông Buk, Đăk Lăk - tâm sự: "Những hành khách trên chiếc xe này đều đến từ Đăk Lăk. Đi qua đây, chúng tôi thấy ngôi miếu thờ nên xuống thắp nén nhang tưởng nhớ linh hồn những người xấu số và cầu mong chuyến xe bình yên, đi đến nơi, về đến chốn".
Chúng tôi gặp anh Trần Văn Thành (thôn 2, xã Xuân Hồng, huyện Nghi Xuân, Hà Tĩnh) - người đã xây nên ngôi miếu thờ này với mong muốn "linh hồn nhưng nạn nhân đỡ cô đơn".
Hàng ngày, anh Thành dậy thật sớm, quét tước ngôi miếu cho khách thập phương dâng hương
Vừa thu nhặt những đồng tiền âm phủ mà những người khách qua đường rải quanh miếu, dọn dẹp chiếc bàn thờ, châm thêm hương vào lư, anh kể cho chúng tôi nghe câu chuyện xây miếu của mình.
"Sau khi thi thể các nạn nhân được khâm liệm và đưa về quê mai táng, một am thờ nhỏ được một người dân Hà Nội dựng lên ngay chỗ khâm liệm các nạn nhân. Chiếc am quá nhỏ trong khi lượng người đến viếng quá đông. Nhiều hôm hoa quả, bánh kẹo không có chỗ để, mọi người phải trải ni lông lên đất để cúng. Tôi lấy xi măng, cát xây một cái bàn dài ngay trước chiếc am để làm chỗ đặt đồ cúng", anh Thành cho biết.
Hôm đó khi đang xây bệ thì một người đàn bà lạ mặt tới làm lễ. Biết ý định của anh, bà góp 2 triệu đồng, bảo: "Anh cho tôi góp ít tiền để xây chiếc miếu rộng hơn làm chỗ hương khói cho các nạn nhân".
Anh Thuận - hàng xóm của anh Thành coi sóc ngôi miếu mỗi khi anh Thành có việc bận
Cầm 2 triệu đồng của người đàn bà lạ, anh bàn với vợ đóng góp thêm tiền để xây chiếc miếu thờ và đảm đương luôn nhiệm vụ của một "ông từ". Mỗi sáng, anh dậy thật sớm ra quét dọn bàn thờ, thay những bông hoa đã héo, rót thêm nước vào những chiếc chén đã cạn, gom những đồng vàng mã đốt xuống cho người cõi âm. Nhưng lúc anh bận, chị Thủy vợ anh và một người hàng xóm tốt bụng vừa thay anh hương khói vừa bảo vệ ngôi miếu khỏi đàn bò đang mùa thả rông vào phá.
Chỉ vào chiếc hòm công đức để bên cạnh, như sợ chúng tôi hiểu nhầm, anh phân trần: "Những người khách qua đường thường không chuẩn bị kịp hương hoa, bởi vậy theo gợi ý của một người khách tôi đã dựng hòm công đức ở đây. Số tiền mọi người công đức tôi dành hoàn toàn để hương khói cho ngôi miếu này. Mình chỉ thay những người khách có tấm lòng tưởng nhớ người đã khuất thôi".
Câu chuyện về cây đa bên miếu thờ
Ngay sau ngôi miếu thờ, một cây đa trắng vừa được trồng. Đất ở gốc cây vẫn chưa kịp bạc đi nhưng vượt qua thời tiết khắc nghiệt của mùa đông nơi đây, cây đa vẫn tươi tốt. Những cành lá của nó đã bắt đầu vươn ra ôm trọn ngôi miếu thờ.
Xách nước tưới cây đa anh Thành kể: "Một hôm tôi đang chuẩn bị đồ thờ thì một người đàn ông đưa cây đa đến và nhờ tôi trồng hộ. Anh ấy ở bên thành phố Vinh sang. Anh ấy nói trong một lần qua đây, sau khi thắp hương, anh có hứa với linh hồn các nạn nhân là sẽ dâng một cây đa trồng ở đây để lấy bóng mát cho ngôi miếu đỡ cô quạnh.
Bẵng đi chục hôm, vì bận quá nhiều việc anh quên mất lời hứa của mình. Nhưng trong những giấc ngủ lời hứa hôm nào vẫn trở lại nhắc nhở nên anh đã quyết đi kiếm một cây đa tức tốc chở sang đây trồng. Điều anh áy náy mãi là chỉ tìm được cây đa trắng chứ không phải cây đa đỏ như anh đã hứa".
Mỗi ngày có hàng trăm lượt khách qua đường dừng lại để viếng linh hồn các nạn nhân xấu số trong vụ lật xe khách tháng 10/2010 vừa qua
Ngôi miếu mới chỉ hoàn thành từ một tháng nay, cây đa được trồng sau một chút. Mặc dù mới được hình thành nhưng đây dường như đã là mảnh đất thiêng đối với hành khách có dịp đi qua con đường này. "Không phải duy tâm nhưng từ khi có ngôi miếu, đoạn đường ni không có bất kỳ một vụ tai nạn mô xảy ra. Mọi người đã ý thức hơn trong khi tham gia giao thông rồi", anh Thành chia sẻ.
Màn đêm đang dần bao phủ, dòng Lam tím sẫm một màu. Ánh đỏ của những nén hương đang cháy dở sáng rõ trong đêm. Anh Thành hy vọng lắm, rằng ngôi miếu thờ này sẽ là lời cảnh tỉnh chân thực nhất cho những ai đang cầm vô lăng, nắm giữ sinh mạng sống của chính mình và biết bao con người.
Theo Dân Trí
Nỗi đau tột cùng của người thân 5 nạn nhân chưa tìm thấy Đã 10 ngày trôi qua và chưa biết đến lúc nào nỗi đau của thân nhân những người tử nạn cùng chiếc xe khách hôm 18/10 có thể nguôi ngoai. Thi thể của 5 nạn nhân không còn hy vọng tìm thấy. Tuyệt vọng thật rồi... Dòng sông Lam đã trở nên hiền hòa hơn, nước không còn xoáy cuồn cuộn, không đục...