Nghiên cứu sơ bộ tại Hồng Kông: 30% bệnh nhân Covid-19 hồi phục bị mất trí nhớ
Theo nghiên cứu mới ở Hồng Kông, khoảng 1/3 số bệnh nhân hồi phục sau khi mắc Covid-19 bị mất trí nhớ, 1/3 bệnh nhân bị lo lắng, buồn phiền nhiều tháng sau khi được chữa khỏi.
Nhiều nghiên cứu gần đây nêu các di chứng với bệnh nhân Covid-19 kể cả sau khi hồi phục. Ảnh REUTERS
Theo South China Morning Post ngày 12.7, một nghiên cứu sơ bộ được đội ngũ tại Đại học Trung Văn Hồng Kông thực hiện với bệnh nhân Covid-19 ở Hồng Kông cho thấy, trong 128 người đã được chữa khỏi bệnh Covid-19, có khoảng 1/3 số người bị mất trí nhớ.
Những người này không thể nhớ tên bạn bè, hoặc không thể tập trung vào công việc, trong khi một bệnh nhân lớn tuổi không nhớ được con đường leo núi mà ông thường đi gần nhà mình.
Trong khi đó, 1/3 số bệnh nhân khác trong số 128 người được khảo sát cho thấy dấu hiệu lo lắng, buồn bã, trầm cảm, rối loạn căng thẳng, thậm chí có ý muốn tự tử.
Dù vậy, các nhà nghiên cứu khẳng định đây mới chỉ là sơ bộ và nghiên cứu chưa hoàn tất. Nhóm cho rằng tỷ lệ có thể tăng hoặc giảm nếu có thêm mẫu là các bệnh nhân Covid-19 đã hồi phục khác.
Nhóm nghiên cứu đang tiếp tục tiến hành thu thập và phân tích dữ liệu trong các giai đoạn tiếp theo.
Lý giải di chứng Covid-19 kéo dài: bệnh có thể gây thay đổi lâu dài trong tế bào máu
Tiến sĩ Arthur Mak, dẫn đầu dự án nghiên cứu, cho hay trên thế giới đã ghi nhận các trường hợp bệnh nhân Covid-19 suy giảm tư duy sau khi hồi phục là di chứng hậu Covid-19, tuy nhiên nghiên cứu của ông có kết quả khác so với những báo cáo ban đầu tại Anh hay Mỹ. Theo đó, ông cho rằng nhiều người có các triệu chứng như khảo sát sau tận 10 tháng chứ không chỉ ngay sau khi vừa khỏi Covid-19.
Ông Mak hy vọng có thêm 500 bệnh nhân khỏi Covid-19 tại Hồng Kông tham gia để hoàn thiện nghiên cứu với hy vọng giúp các bác sĩ điều trị sau này.
Trước đó, nhiều nghiên cứu được tiến hành cho thấy có các di chứng đối với bệnh nhân Covid-19 khỏi bệnh cả mức độ nặng và nhẹ, là các triệu chứng của hội chứng được gọi là “Covid-19 kéo dài”.
Nhiều bệnh nhân Covid-19 không triệu chứng 'giả'
Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp, Phó giám đốc Bệnh viện Bệnh Nhiệt đới Trung ương đang chi viện Đồng Tháp, nhận định nhiều bệnh nhân Covid-19 không có biểu hiện khó thở dù phổi tổn thương nặng, suy hô hấp.
Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp vào chi viện Đồng Tháp từ ngày 1/7 theo sự phân công tử Bộ Y tế. Lúc đó, 7 người mắc Covid-19 đã tử vong, khoảng 3 người khác đang nguy kịch tại bệnh viện Sa Đéc. Đến ngày 11/7, Đồng Tháp ghi nhận 17 ca tử vong, 16 ca nặng tiên lượng xấu, trong số hơn 500 ca Covid-19, theo ông Tạ Tùng Lâm, Phó giám đốc Sở Y tế Đồng Tháp. Khoảng 80% trường hợp bệnh nhân không có triệu chứng, 20% trường hợp có triệu chứng trong đó số ca nặng 5%.
Bác sĩ Cấp cho biết dịch bùng phát tại khoa Nội Bệnh viện Sa Đéc, nơi điều trị các bệnh nhân có sẵn nhiều bệnh nặng như tiểu đường, suy thận giai đoạn cuối, thiếu máu cơ tim, ung thư... Các bệnh nhân này nhiễm nCoV giống giọt nước tràn ly, dẫn đến nhiều ca tử vong.
Số bệnh nhân không triệu chứng hiện khoảng 80%, song bác sĩ Cấp cho biết cần cảnh giác với các ca ban đầu không có triệu chứng này. Nhiều bác sĩ nhầm lẫn, cho rằng bệnh nhân nhập viện không có triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng nhẹ, nghĩa là bệnh nhân nhẹ, do đó không theo dõi sát nên không phát hiện diễn biến nặng kịp thời.
"Thực tế, nhiều bệnh nhân Covid-19 khi khởi phát có thể không có triệu chứng gì đáng kể, nhưng sau 7-8 ngày diễn tiến rất nặng hoặc thậm chí tử vong", bác sĩ Cấp nói.
Bên cạnh đó, một đặc điểm nữa là nhiều bệnh nhân Covid-19 không có biểu hiện khó thở dù bị tổn thương phổi nặng và suy hô hấp - hiện tượng "không triệu chứng giả". Tình trạng này không mới, đã xuất hiện ở nhiều đợt dịch Covid-19 trong nước, được gọi là "thiếu oxy yên lặng" . Nếu thầy thuốc không có kinh nghiệm tốt và không có đủ thiết bị đo độ bão hòa oxy máu, có thể bỏ sót dấu hiệu khiến bệnh nhân nguy kịch hoặc tử vong, theo bác sĩ Cấp.
Để phát hiện sớm các dấu hiệu cảnh báo nguy cơ diễn biến nặng, bác sĩ cần làm chủ xét nghiệm đánh giá về đông máu, miễn dịch, có năng lực phiên giải phù hợp kết quả xét nghiệm này. Song ở nhiều địa phương, hệ thống cơ sở y tế chưa thực hiện xét nghiệm, y bác sĩ chưa có năng lực phiên giải kết quả. Đến khi bệnh nhân có biểu hiện lâm sàng nặng như khó thở, sốc mới được phát hiện, kết quả điều trị kém hiệu quả.
Từ kinh nghiệm thực tế, bác sĩ Cấp cho biết thời điểm mấu chốt để sàng lọc phân loại bệnh nhân nặng hay nhẹ là ngày thứ 7-8 điều trị. Tuy nhiên, tại thời điểm mới xuất hiện bệnh, bác sĩ không thể biết trước bệnh nhân nào sẽ nặng hay nhẹ và không xác định được ngày 7-8 của bệnh nhân không triệu chứng. Do đó, nơi thu dung ban đầu cần coi những bệnh nhân mới phát hiện dương tính trong tuần đầu tiên là nhóm có nguy cơ diễn biến nặng, theo dõi sát, sàng lọc dấu hiệu nặng. Nếu phát hiện các dấu hiệu nguy cơ hoặc biểu hiện nặng tại bất kỳ thời điểm nào trong giai đoạn này, đặc biệt vào ngày thứ 7-8, bác sĩ cần chuyển người bệnh sang khu điều trị sớm, ngăn ngừa xu hướng diễn biến nặng hoặc hồi sức kịp thời. Những bệnh nhân sau hơn một tuần không có dấu hiệu dự báo tiến triển nặng trên lâm sàng và xét nghiệm, bác sĩ mới coi là bệnh nhân nhẹ và chuyển sang khu cách ly chờ hồi phục.
"Với những bệnh nhân mắc mới tại cộng đồng, chúng tôi đang áp dụng mô hình điều trị theo hướng dẫn của Bộ Y tế và những kinh nghiệm đã có để giảm tỷ lệ diễn biến nặng", bác sĩ Cấp cho biết.
Mô hình điều trị mà bác sĩ Cấp đề cập là mô hình "tháp ba tầng" đã áp dụng thành công ở Bắc Giang, Bắc Ninh và đang vận dụng tại TP HCM. Tức là, bệnh nhân không triệu chứng được xếp vào khu vực "tầng 1" là các bệnh viện dã chiến để theo dõi; bệnh nhân nhẹ đưa vào khu vực "tầng 2" là các bệnh viện trị Covid hoặc chuyển đổi công năng, điều trị theo triệu chứng; bệnh nhân nặng điều trị ở "tầng ba" là các bệnh viện chuyên sâu Covid có đầy đủ trang thiết bị kỹ thuật cao và đơn vị hồi sức tích cực (ICU).
"Có thể tưởng tượng hệ thống điều trị như một tòa tháp, càng bên dưới lượng bệnh nhân càng rộng nhưng số nhân viên y tế càng ít, càng lên trên lượng bệnh nhân giảm đi nhưng tập trung thầy thuốc và trang thiết bị kỹ thuật càng cao", bác sĩ Cấp giải thích.
Bệnh nhân Covid-19 mới phát hiện được nhập vào tầng hai của tháp là khu vực có khả năng theo dõi và sàng lọc dấu hiệu nặng. Nếu sau 7-8 ngày không có biểu hiện gì nặng, họ được chuyển xuống tầng một của tháp là khu vực cách ly chờ ra viện.
Trong trường hợp phát hiện được xu hướng diễn biến nặng ở bất kỳ thời điểm nào, bệnh nhân cần chuyển lên tầng ba của tháp điều trị, là khu vực có thể điều trị và hồi sức tích cực.
Tuy nhiên, theo bác sĩ Cấp, hiện nay một số địa phương đang vận dụng chưa đúng mô hình "tháp ba tầng", do chưa có kinh nghiệm theo dõi nhóm bệnh nhân không triệu chứng như đã phân tích ở trên, đơn cử như tại Đồng Tháp. Ngoài ra, Đồng Tháp đã chủ động xây dựng kế hoạch và triển khai đáp ứng với các tình huống dịch bệnh trên địa bàn, tuy nhiên gặp khó khăn nhất định về nhân lực và trang thiết bị hồi sức cấp cứu, năng lực kỹ thuật hồi sức. Một số cơ sở điều trị còn thiếu vật tư, trang thiết bị và nhân lực để triển khai các xét nghiệm và kỹ thuật hồi sức cần thiết.
Khó khăn của Đồng Tháp không phải là cá biệt, theo bác sĩ Cấp. Nhiều tỉnh khác rất hạn chế năng lực về hồi sức tích cực , phải nhận hỗ trợ từ trung ương và các tỉnh bạn khi dịch bệnh bùng phát. Hiện chỉ có ba trung tâm như Hà Nội, TP HCM, Huế - Đà Nẵng và một vài tỉnh lớn có đội ngũ y bác sĩ và trang bị hồi sức cấp cứu tương đối mạnh.
Bác sĩ Nguyễn Trung Cấp, Phó giám đốc Bệnh viện Bệnh nhiệt đới Trung ương. Ảnh: Thạch Thảo.
Bác sĩ Cấp giải thích chuyên ngành Hồi sức cấp cứu (ICU) vốn khó, đòi hỏi đào tạo kỹ lưỡng, công việc vất vả. Từ nhiều năm qua, thầy thuốc theo chuyên ngành hồi sức không nhiều. Các trang bị hồi sức cấp cứu như máy thở, máy lọc máu, ECMO (hệ thống oxy hóa màng ngoài cơ thể) rất đắt tiền, không sinh lợi nhuận như những loại máy khác như máy siêu âm, can thiệp mạch... nên chưa được nhiều bệnh viện, nhiều địa phương ưu tiên đầu tư.
"Nếu Covid-19 bùng phát trên diện rộng, khó nhận được sự hỗ trợ nhiều cho đơn vị , một số địa phương có thể sẽ gặp khó khăn trong điều trị bệnh nhân Covid-19 nặng", bác sĩ Cấp nói.
Thống kê của Tiểu ban Điều trị, Bộ Y tế, đến ngày 10/7, toàn quốc có hơn 15.000 ca Covid-19 đang điều trị tại các cơ sở y tế. Trong đó, 270 bệnh nhân Covid-19 có tiên lượng nặng, 106 người tiên lượng rất nặng, thống kê đến ngày 7/7. Tỷ lệ ca tiên lượng nặng chiếm 3,3%, tiên lượng rất nặng chiếm 1,3%, 9 người tiên lượng tử vong (0,1%). Nhiều ca bệnh dưới 40 tuổi, trẻ, không có bệnh nền song diễn biến nặng, nguy cơ tử vong thường trực.
Sở Y tế TP HCM ngày 28/6 nhận định khoảng 80% bệnh nhân Covid-19 trong đợt dịch này tại thành phố không có triệu chứng hoặc chỉ có triệu chứng nhẹ, khoảng 1,3% bệnh nhân có triệu chứng nặng, cần hỗ trợ hô hấp, 68% ca mắc Covid-19 không có triệu chứng.
Hiện, tỷ lệ bệnh nhân Covid-19 tử vong tại Việt Nam thấp hơn so với thế giới. Tính đến ngày 11/7, số ca Covid-19 tử vong trong đợt dịch này là 81, số tử vong từ đầu năm 2020 đến nay lên 116 ca.
Thiết bị theo dõi thể dục tiết lộ khả năng phục hồi của bệnh nhân COVID Nghiên cứu của các nhà khoa học tại California mới đây cho biết, các thiết bị theo dõi thể dục đeo tay như Fitbits hoặc Apple Watch có thể giúp theo dõi sự phục hồi của bệnh nhân COVID-19. Nghiên cứu tiến hành từ cuối tháng 3 năm 2020 đến cuối tháng 1 năm 2021, bao gồm 875 người đeo Fitbit, 234 người...