Nghiên cứu mới về tác dụng của vaccine lao trong việc phòng COVID-19
Một nghiên cứu mới rút ra kết luận rằng vaccine phòng lao phổi có thể giúp cải thiện phản ứng miễn dịch trước virus SARS-CoV-2.
Các nhà khoa học nghiên cứu vaccine lao (BCG) tại một phòng thí nghiệm ở Nam Phi. Ảnh: Reuters
Theo hãng thông tấn Reuters (Anh), trong giai đoạn đầu dịch COVID-19, có nhiều nghiên cứu cho thấy những người từng tiêm vaccine lao (BCG) từ khi còn nhỏ có tỷ lệ nhiễm virus SARS-CoV-2 khá thấp.
Nghiên cứu thực hiện trên chuột hamster cho kết quả chúng có nguy cơ thấp mắc viêm phổi từ COVID-19 nếu được tiêm vaccine lao, ngoài ra, nồng độ virus SARS-CoV-2 trong phổi của chúng cũng khá thấp.
Các nhà nghiên cứu tại Đại học Johns Hopkins (Mỹ) nhận thấy khác biệt quan trọng trong tế bào phổi của động vật từng tiêm và không tiêm vaccine lao sau khi nhiễm SARS-CoV-2. Kết quả này đã được đăng tải trên trang web bioRxiv vào ngày 15/3, trước khi được bình duyệt khoa học.
Video đang HOT
Tiến sĩ William Bishai, người tham gia nghiên cứu nhận xét, khi mắc COVID-19, những động vật từng được tiêm vaccine lao sẽ có kháng thể đến tế bào phổi nhanh hơn, cơ chế phục hồi phổi cũng nhanh hơn và tình trạng viêm gây tổn thương mô cũng giảm.
Vào đầu tháng 3, các nhà nghiên cứu Ấn Độ cũng đưa ra đánh giá về tác động của vaccine lao đối với những người từng tiêm AstraZeneca trên trang Research Square trước khi được bình duyệt khoa học.
Theo đó, 21 đối tượng tham gia nghiên cứu tiêm vaccine lao có khánh thể và tế bào T “mạnh mẽ hơn” đáng kể chống lại virus so với 13 đối tượng tham gia nghiên cứu chưa từng tiêm loại vaccine này.
Đội ngũ nghiên cứu của Đại học Johns Hopkins cũng nhận định rằng việc kết hợp vaccine lao và vaccine COVID-19 có thể tạo bảo vệ mang tính hợp lực. Các thử nghiệm lâm sàng với khả năng phòng vệ của vaccine trước COVID-19 đang được tiến hành.
Bệnh lao khiến khoảng 1,7 triệu người tử vong mỗi năm, chủ yếu ở các nước nghèo. Vaccine duy nhất phòng lao gọi là BCG và được sử dụng chủ yếu ở các khu vực có nguy cơ cao để bảo vệ trẻ em.
Nhờ vaccine, tỷ lệ tử vong do COVID-19 giảm dù số ca cán mốc 5 triệu người
Mặc dù số người tử vong vì COVID-19 trên toàn cầu cán mốc 5 triệu ca hôm 1/11, tỷ lệ tử vong của đại dịch này đã giảm từ mốc đỉnh điểm nhờ những tiến triển về tiêm chủng.
Một bé trai ở Bogota, Colombia, được tiêm vaccine ngừa COVID-19 của hãng Sinovac. Ảnh: Reuters
Theo số liệu của Đại học Johns Hopkins, tỷ lệ tử vong vì nhiễm virus SARS-CoV-2 hiện nay là gần 2%, chưa bằng 1/3 so với đỉnh điểm hồi mùa Xuân năm 2020.
Dù vậy, COVID-19 vẫn nguy hiểm hơn nhiều bệnh lây nhiễm khác, chẳng hạn như cúm với tỷ lệ tử vong sau mắc xấp xỉ 0,1%. Việc mở rộng tiếp cận vaccine phòng ngừa COVID-19 tại các nước đang phát triển cũng như sự xuất hiện của một số biện pháp điều trị mới là yếu tố quan trọng góp phần đưa cuộc sống của người dân trở về tình trạng bình thường.
Mỹ đã ghi nhận khoảng 740.000 trường hợp tử vong vì COVID-19, nhiều hơn bất kỳ quốc gia nào khác trên thế giới. Tuy nhiên, thống kê nạn nhân xấu số hàng ngày hiện chỉ bằng gần 60% so với mức của cuối tháng 9, với phần lớn nạn nhân là người chưa tiêm vaccine.
Dưới 60% người Mỹ đã tiêm đủ liều vaccine ngừa COVID-19. Chật vật để nâng cao tỷ lệ tiêm chủng, Mỹ đang áp dụng chính sách tiêm liều tăng cường cho người lớn tuổi và những nhóm đối tượng dễ bị tổn thường khác nhằm ngăn chặn một làn sóng lây nhiễm khác xảy ra vào mùa Đông tới. Cho đến nay đã có trên 9% dân số Mỹ được tiêm mũi thứ ba.
Trong khi đó, số ca tử vong vì COVID-19 trong 24 giờ tại Nga đã chạm mốc kỷ lục mới là 1.100 người. Ukraine và một số quốc gia Baltic khác cũng phải đối mặt tình trạng tử vong cao đột biến.
Xu hướng này phần lớn bắt nguồn từ sự thiếu tin tưởng vào hiệu quả của vaccine. vắc xin. Người Nga được tiếp cận rộng rãi với một số loại vaccine sản xuất trong nước, nhưng không có vaccine sản xuất ở nước ngoài. Cho đến nay, chỉ hơn 30% người Nga đã tiêm chủng đầy đủ. Chiến dịch tiêm chủng ở các nước láng giềng cũng diễn ra chậm chạp.
Các nước phát triển vẫn kiểm soát phần lớn nguồn cung cấp vaccine COVID-19. Thu hẹp khoảng cách tiếp cận giữa các quốc gia giàu và nghèo sẽ là chìa khóa cho sự phục hồi toàn cầu sau đại dịch. Khoảng một nửa dân số thế giới hiện đã được tiêm ít nhất một liều, nhưng ở các nước thu nhập thấp, tỷ lệ này chỉ hơn 3%.
Căn cứ vào nguy cơ "nhiễm COVID-19 đột biến" ở người đã tiêm vaccine, nếu chỉ dựa vào duy nhất vaccine sẽ bộc lộ các điểm hạn chế. Nhiều hãng dược phẩm đang tiến hành thử nghiệm lâm sàng thuốc uống và cocktail kháng thể có thể điều trị COVID-19. Theo công ty nghiên cứu Airfinity của Anh, trên 50 sản phẩm sắp được đưa vào sử dụng.
Hơn 3/4 các phương pháp điều trị tiềm năng, vốn được phát triển cho các bệnh khác, đã giúp cải thiện tình trạng bệnh COVID-19 nhanh chóng. Tháng trước, Merck đã nộp đơn xin Cơ quan Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Mỹ (FDA) cấp phép sử dụng khẩn cấp thuốc molnupiravir - phương pháp điều trị kháng virus đường uống của hãng này.
Ông Kazuhiro Tateda, Giáo sư y khoa tại Đại học Toho của Nhật Bản đánh giá điều quan trọng là phải phát triển các phương pháp điều trị đường uống để dễ dàng áp dụng với bệnh nhân ngoại trú. Sự kết hợp của vaccine, phương pháp điều trị và xét nghiệm rộng rãi hơn sẽ là chìa khóa để đảm bảo COVID-19 có thể được kiểm soát giống như bất kỳ bệnh truyền nhiễm nào khác về lâu dài.
Xét về mặt lịch sử, số ca tử vong do COVID-19 vẫn thấp hơn nhiều so với những đại dịch khác. Điển hình, dịch cúm Tây Ban Nha từng khiến 50-100 triệu người thiệt mạng chỉ trong thời gian ngắn từ năm 1918-1919.
Vaccine của hãng AstraZeneca ngăn ngừa bệnh nhân COVID-19 biến chứng nguy hiểm Vaccine ngừa COVID-19 của hãng AstraZeneca đã cho thấy hiệu quả 74 % trong việc ngăn ngừa các biến chứng nguy hiểm của bệnh và tỷ lệ này là 83,5% đối với những người từ 65 tuổi trở lên. Vaccine phòng COVID-19 của hãng dược AstraZeneca. Ảnh: AFP/TTXVN Đây là kết qua cuộc nghiên cứu lâm sàng do AstraZeneca tiến hành tại Mỹ...