Nghiên cứu chỉ ra phải có tới hơn một chục loài cá Châu Á có thể đi bộ trên mặt đất
Tổ tiên chúng ta cũng đã từng thế này đó ư? Liệu chúng ta có đang chứng kiến sự xuất hiện của kẻ mà tương lai sẽ thống trị mặt đất?
Nghiên cứu mới chỉ ra hiện tượng ít thấy nhưng cũng đã lần đầu diễn ra từ cả triệu năm trước: một họ cá Châu Á mang khả năng đi được trên cạn bằng tứ chi. Đây là khám phá có khả năng giải thích cặn kẽ cách những loài sinh vật biển đầu tiên đi lại được trên mặt đất.
Cá chạch sông Nam Á là một họ cá nhỏ thường bám vào đá ở nơi nước xiết. Mới được xuất bản trên Tạp chí Hình thái học, nghiên cứu giải phẫu xương mới về loài này cho thấy ít nhất có 11 loài cá chạch sông có khả năng đi bộ trên mặt đất. Các nhà khoa học mới chỉ tận mắt chứng kiến được một loài trong số đó, một loài cá mù sống trong hang có tên khoa học là Cryptotora thamicola, đi được trên đất liền. Và nghiên cứu mới chỉ ra rằng Cryptotora thamicola không phải loài duy nhất.
Tái tạo hình chụp x-quang của Cryptotora thamicola với độ phân giải cao hơn.
Brooke Flammang, một nhà sinh học công tác tại Viện Công nghệ New Jersey và cũng là tác giả chính của nghiên cứu, phân tích 29 loài cá chạch sông để viết nên báo cáo mới. Sử dụng công nghệ quét micro-CT, Fammang và cộng sự phân tích và so sánh những mẫu vật khác nhau từ những loài cá chạch khác nhau, chia ra thành những nhóm tách biệt với các hình dạng, nhóm cơ và cấu trúc xương khác nhau.
Nhóm nghiên cứu quốc tế này còn tiến hành phân tích gen, lấy mẫu ADN của 72 con cá chạch nhằm tái tạo được cây phả hệ tiến hóa của họ cá “có chân”.
Các kết luận về giải phẫu cơ thể cùng phân tích gen đã cho thấy họ cá này có khả năng đi lại trên mặt đất.
“ Trong đa số các họ nhà cá, không có mối liên hệ về xương nào giữa xương lưng và xương khớp vây. Những con cá này khác biệt là do chúng có xương hông“, giáo sư Flammang viết trong email gửi báo giới. “ Trong cơ thể những con cá được chúng tôi nghiên cứu, phân tích cho thấy ba hình thái khác biệt, từ vừa mỏng vừa có kết nối lỏng lẻo tới những khớp linh hoạt và có kết nối vững chắc. Chúng tôi cho rằng những con cá có ‘xương hông’ lớn và linh hoạt nhất sẽ có khả năng đi lại tốt nhất“.
Video đang HOT
Khung xương Cryptotora thamicola dưới nhiều góc nhìn khác nhau.
Trong những con cá được phân tích, có 11 loài mang những chiếc hông linh hoạt này. Đáng chú ý hơn, cách chúng di chuyển trên lý thuyết cũng tương tự vận động chi của loài sa giông khi chúng bước trên mặt đất. Tuy nhiên, như đã nói ở trên, khoa học chỉ ghi lại một trường hợp cá chạch sông duy nhất đi lại trên mặt đất, đó là loài Cryptotora thamicola; ngoài việc đi lại trên đất liền, chúng còn có thể sử dụng cả tứ chi để trèo ngược lên thác nước.
Theo lời Flammang, chúng dậm vây của mình xuống đất, đẩy cơ thể của mình tiến về phía trước theo từng bước nhỏ. Nhiều khả năng, vận động này là cơ chế thích nghi với dòng nước xiết thường thấy ở sông và suối. Với loài cá sống trong hang, việc di chuyển dễ dàng trên nhiều địa hình cho phép chúng tiếp cận với nguồn nước giàu oxy dễ dàng hơn.
Như Zach Randall, nhà sinh vật học công tác tại Bảo tàng Lịch sử Tự nhiên Florida và đồng tác giả nghiên cứu, đã chỉ ra, thì những đặc tính này “ nhiều khả năng là điểm mấu chốt giúp những con cá không bị trôi theo dòng nước nơi chúng sinh sống“. Nhà nghiên cứu Randall còn nhấn mạnh về các độ chi tiết của báo cáo khi các mô tả vận động chi, chuyển động đã cho phép loài cá đi lại trên mặt đất.
Cryptotora thamicola trong môi trường tự nhiên.
Giáo sư Flammang nói rằng những con cá này không đại diện cho loài, mà là một khái niệm tương tự như “mắt xích bị mất” giữa sinh vật sống dưới nước với động vật có chi đi lại được trên mặt đất.
“ Nhưng chúng ta cũng biết rằng xuyên suốt quá trình tiến hóa, sinh vật sống đã liên tục thích ứng bằng những hình thái thay đổi cơ thể tương đương, là kết quả của áp lực từ chọn lọc tự nhiên. Và nhờ hiểu biết rằng vật lý không thay đổi theo thời gian, vậy nên ta có thể học hỏi từ những vận động sinh ra trong quá trình đi lại của cá, sử dụng nó để hiểu rõ cách những sinh vật đã tuyệt chủng đi lại trên mặt đất“, bà Flammang nói.
Loài các chạch sông Homaloptera bilineata leo lên cành cây bằng tứ chi, chưa rõ khả năng đi lại trên mặt đất ra sao.
Chính vậy, đó là mục tiêu kế của nhóm nghiên cứu: là phân tích rõ cơ chế vận động của loài cá. Họ tiến hành nghiên cứu bước đầu bằng camera tốc độ cao và kỹ thuật theo dõi hoạt động của cơ bắp.
“ Chúng tôi có thể sử dụng thông tin về cách đi lại của cá đang sống để lập trình cho mô hình robot cá lưỡng cư mà đội ngũ đang chế tạo“, bà Flammang nói. “ Rồi có thể ứng con cá robot này vào những mẫu hóa thạch ta đã khai quật được, nhằm nghiên cứu tiến triển của hình thái học cũng như chức năng vận động của cơ sinh học“.
Phát hiện tổ tiên sớm nhất của vượn hiện đại
Hóa thạch khai quật ở miền bắc Ấn Độ tiết lộ một loài vượn cổ chưa từng được biết tới sống cách đây 13 triệu năm.
Mẫu vật - bao gồm một chiếc răng hàm dưới gần như hoàn chỉnh - đại diện cho hóa thạch vượn dạng người mới đầu tiên được tìm thấy ở khu vực Ramnagar, bang Uttarakhand, trong gần một thế kỷ. Nhóm nghiên cứu do Phó giáo sư Christopher C. Gilbert từ Đại học Hunter của Mỹ dẫn đầu đã đặt tên cho loài vượn cổ này là Kapi ramnagarensis.
Hình ảnh phục dựng loài vượn cổ Kapi ramnagarensis. Ảnh: Forbes Finance.
Trong báo cáo trên tạp chí Proceedings of the Royal Society B, các nhà khoa học mô tả Kapi ramnagarensis là tổ tiên sớm nhất từng được biết đến của vượn hiện đại. Phát hiện đã lấp đầy những khoảng trống lớn trong hồ sơ hóa thạch của vượn dạng người.
Gilbert cùng các cộng sự đã tình cờ tìm thấy chiếc răng 13 triệu năm tuổi khi leo núi tại địa điểm hóa thạch nổi tiếng ở Ramnagar. Trong lúc nghỉ chân, nhóm nhìn thấy thứ gì đó sáng bóng nhô lên từ mặt đất và khi đào nó lên, họ nhanh chóng nhận ra đó là một khám phá đặc biệt.
Hiện trường phát hiện răng hóa thạch. Ảnh: Biren Patel.
"Chúng tôi biết đó là răng của một loài vượn, nhưng nó không giống với các mẫu răng của bất kỳ loài linh trưởng nào trong khu vực. Dựa vào hình dạng và kích thước, chúng tôi phỏng đoán chiếc răng hàm có thể thuộc về tổ tiên của vượn hiện đại. Vì vậy, nhóm đã mang mẫu vật về phân tích để tìm kiếm câu trả lời chính xác", Gilbert chia sẻ.
Nhóm nghiên cứu đã chụp ảnh và chụp cắt lớp vi tính hóa thạch, sau đó so sánh nó với các mẫu răng của cả vượn hiện đại và vượn cổ để làm nổi bật những điểm tương đồng và khác biệt trong giải phẫu.
Ảnh chụp cắt lớp vi tính răng hóa thạch của Kapi ramnagarensis. Ảnh: Leakey Foundation.
"Chúng tôi nhận thấy mối liên kết chặt chẽ của chiếc răng 13 triệu năm tuổi với các loài vượn còn sống hiện nay. Đây là một khám phá độc đáo. Nó đẩy lùi kỷ lục hóa thạch cổ nhất được biết đến ở loài vượn về ít nhất 5 triệu năm, cung cấp một cái nhìn thoáng qua nhưng quan trọng về giai đoạn đầu trong lịch sử tiến hóa của chúng", Alejandra Ortiz, một thành viên trong nhóm nghiên cứu, nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, phát hiện mới còn cung cấp bằng chứng về sự di cư của vượn lớn (bao gồm cả tổ tiên của đười ươi) và vượn nhỏ từ châu Phi đến châu Á, xảy ra vào cùng thời điểm và qua những địa điểm giống nhau.
Gilbert (ngồi giữa) cùng các thành viên trong nhóm nghiên cứu. Ảnh: Leakey Foundation.
"Tôi thấy những thành phần sinh địa lý thực sự thú vị. Ngày nay, vượn và đười ươi đều được tìm thấy ở Sumatra và Borneo ở Đông Nam Á, trong khi hóa thạch vượn dạng người lâu đời nhất trước đây có nguồn gốc từ châu Phi. Thật tuyệt khi biết tổ tiên của vượn và đười ươi sinh sống tại cùng một chỗ ở miền bắc Ấn Độ cách đây 13 triệu năm và có thể có một lịch sử di cư tương tự trên khắp châu Á", Chris Campisano, một thành viên khác trong nhóm nghiên cứu, cho biết thêm.
Phát hiện sách y khoa cổ nhất trên thế giới chưa từng được biết đến Theo một nghiên cứu mới đây, bản thảo lụa 2.200 năm tuổi được chôn cùng với một gia đình tinh hoa của Trung Quốc cổ đại, có thể là sách giáo khoa y học lâu đời nhất được biết đến trên thế giới. Một phần bản thảo của văn bản y khoa cổ nhất thế giới. Báo cáo trên tạp chí The Anatomical...