Nghịch lý ngành mía đường: Sản xuất 700.000 tấn, nhập khẩu 2 triệu tấn
Do tác động của dịch Covid-19 nên 1/3 nhà máy ngành mía đường đã phải đóng cửa và nhiều doanh nghiệp khác đang đứng trước nguy cơ phá sản.
1/3 nhà máy đường đóng cửa
Đó là thông tin được đưa ra tại Tọa đàm trực tuyến: “Tìm giải pháp cho ngành mía đường trong tình hình mới” do báo Nhân dân tổ chức.
Được biết, qua 25 năm xây dựng và thực hiện chương trình “Một triệu tấn đường”, ngành mía đường Việt Nam đã nỗ lực vượt qua khó khăn, đạt được nhiều thành tựu quan trọng, tạo việc làm cho hơn 350.000 hộ nông dân, chủ động được nguồn đường sản xuất trong nước.
Toàn cảnh tọa đàm.
Tuy nhiên, từ ngày 1/1/2020, khi Việt Nam thực hiện cam kết theo các hiệp định thương mại và đặc biệt là hiệp định ATIGA (Hiệp định thương mại tự do trong khu vực ASEAN), trong đó mặt hàng đường được giảm thuế từ 80% (đường thô) xuống còn 5% trong nội khối ASEAN và đối với đường trắng từ 85% xuống còn 5% từ 1/1/2020 cộng với đại dịch Covid-19 khiến bà con nông dân và doanh nghiệp mía đường cực kỳ khó khăn, 1/3 nhà máy đường đã phải đóng cửa và nhiều doanh nghiệp khác đang đứng trước nguy cơ phá sản.
Ông Lê Văn Tam, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần Mía đường Lam Sơn thừa nhận một thực tế, Hiệp định ATIGA đã có nhiều tác động gây khó khăn cho ngành sản xuất mía đường trong nước.
Giá đường thấp đã làm cho giá mía tụt giảm, ảnh hưởng nghiêm trọng đến vùng nguyên liệu; thu nhập của người trồng mía tụt giảm, diện tích mía bị thu hẹp (chỉ còn lại 30% so với 5 năm trước đây), năng suất, chất lượng mía chưa được cải thiện, nhà máy không đủ nguyên liệu để sản xuất.
“Theo tôi, có các nguyên nhân chính yếu như sau: Đất trồng mía vẫn còn manh mún, nhỏ lẻ, phân tán, trong khi đó diện tích trồng mía chủ yếu là đất đồi; lao động tại nông thôn đang thiếu hụt trầm trọng. Ngoài ra, nạn nhập lậu vẫn hoành hành với biên giới Việt Nam quá rộng. Dù Chính phủ đã vào cuộc rất quyết liệt. Vậy nên, cần có thêm chính sách chống hàng nhập lậu và gian lận thương mại” – ông Tam nói.
Ông Phạm Hồng Dương, Phó Chủ tịch Thường trực HĐQT TTC Sugar đồng tình với quan điểm này. “Theo tôi, Nhà nước, các nhà máy cần có giải pháp để làm sao vực dậy ngành mía đường. Từ trước khi Hội nhập ATIGA, Việt Nam có 41 nhà máy mía đường phía Bắc. Có khoảng 300.000 ha mía đường, 300.000 nông dân. Nhưng hiện nay, chỉ còn 30 nhà máy hoạt động, 11 nhà máy đóng cửa. Trong 30 nhà máy đó, chỉ có 13 nhà máy còn hoạt động xoay vòng vốn, 17 nhà máy đang thua lỗ. Nói về nông dân, hiện nay còn dưới 170.000 người.
Vào những năm 2015-2016, cả Việt Nam có thể sản xuất 1,5 – 1,6 triệu tấn mía đường, nhưng hiện nay chỉ sản xuất được 700.000 tấn, trong khi dự kiến, hết năm 2020, Việt Nam nhập khẩu 1,2 triệu tấn. Đó là điều bất hợp lý cho nông dân, nhà máy và doanh nghiệp” – ông Dương nói.
Video đang HOT
Nhiều nhà máy đường gặp khó khăn do đường nhập khẩu. Ảnh: I.T
Ông Đào Văn Đường, xã Thọ Lâm, huyện Thọ Xuân, Thanh Hóa, một nông dân trồng mía cho biết, hiện, san luong 1h mia chỉ đạt 60-70 tan chỉ đủ chi phí đầu vào và thậm chí là lỗ. “Theo tôi, để người trồng mía tiếp tục phát triển cần don đien đoi thua và co gioi hoa toàn bộ” – ông Đường kiến nghị.
Phải giữ các vùng trồng mía chiến lược
Theo ông Trần Công Thắng, Viện trưởng Viện Chiến lược và Phát triển NNNT, chúng ta thực hiện ATIGA chưa được một năm nhưng nhập khẩu chính ngạch tăng lên rất nhiều, do vậy không thể nói một cách dễ dàng là bỏ để nhập khẩu phụ thuộc vào nhập khẩu từ nước ngoài.
“Vì vậy, cần phải rà soát lại các diện tích sản xuất mía đường và chỉ giữ lại các vùng trồng chiến lược và có hiệu quả. Cần xác định diện tích kém hiệu quả có thể chuyển đổi thì có chính sách khuyến khích và cho phép chuyển đổi; diện tích có lợi thế và phù hợp thì tiếp tục đẩy mạnh áp dụng công nghệ cao, cơ giới hóa trong sản xuất, khuyến khích áp dụng công nghệ 4.0 trong quản lý vùng nguyên liệu để giảm công lao động và tăng tỷ lệ thu hoạch, giảm tổn thất từ đó giảm chi phí trồng mía. Xây dựng thành vùng sản xuất mía đường tập trung, thúc đẩy áp dụng cơ giới hóa” – ông Thắng nêu giải pháp.
Ngành mía đương cần tái cơ cấu theo hướng áp dụng đồng bộ cơ giới hóa. Ảnh: I.T
Trong khi đó, ông Phạm Văn Duy, Phó Cục trưởng Cục Chế biến và Phát triển thị trường nông sản (Bộ NNPTNT), thời gian qua, Bộ NNPTNT đã chỉ đạo các đia phương và doanh nghiệp mía đường chủ động xây dựng các dự án phát triển, triển khai một số mô hình sản xuất mía cánh đồng mẫu lớn với quy trình thâm canh cao, cơ giới hóa đồng bộ từ khâu làm đất, chăm sóc đến thu hoạch; áp dụng các giải pháp cơ giới hóa tiên tiến nhằm cải tạo đất, chống rửa trôi, giữ độ ẩm của đất, giảm tổn thất sau thu hoạch ….
Ông Phan Văn Chinh, Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu, Bộ Công Thương, kể từ khi bỏ hạn ngạch thuế quan trong ASEAN, tổng lượng đường mía nhập khẩu vào Việt Nam đã tăng rất nhanh, trong bảy tháng đầu năm 2020 đạt gần 820.000 tấn, tăng gần bảy lần so với cùng kỳ năm 2019.
Trong đó, lượng đường mía nhập khẩu từ Thái Lan vào Việt Nam chiếm tỷ lệ chủ yếu, chiếm gần 92% tổng lượng nhập khẩu vào Việt Nam. Sản lượng đường của Việt Nam đều sụt giảm rất mạnh trong niên vụ năm 2019/2020, khoảng tới 800.000 tấn so với sản lượng 1,2 triệu tấn của niên vụ năm 2018/2019.
Hiện, ngành mía đường trong nước đã nộp hồ sơ yêu cầu điều tra áp dụng biện pháp chống bán phá giá với sản phẩm đường lỏng làm từ ngô (HFCS) nhập khẩu vào Việt Nam.
Đối với việc này, Bộ Công Thương đã xem xét, thẩm định theo quy định pháp luật và đã ban hành quyết định tiến hành điều tra. Hiện tại, cơ quan điều tra đang yêu cầu các bên liên quan cung cấp thông tin phục vụ cho quá trình điều tra.
Ngoài ra, đối với sản phẩm đường mía, ngành sản xuất trong nước cũng đã nộp hồ sơ yêu cầu điều tra chống bán phá giá và chống trợ cấp đối với sản phẩm đường mía nhập khẩu từ Thái Lan. Bộ Công Thương đang trong quá trình xem xét nội dung hồ sơ để ra quyết định về việc khởi xướng điều tra trong thời gian tới.
EVFTA chính thức có hiệu lực, đường sang EU rộng hơn với gạo, tôm, đồ gỗ
Sau gần 10 năm đàm phán, hôm nay 1/8, EVFTA chính thức có hiệu lực. Hiệp định thương mại tự do giữa Việt Nam và Liên minh châu Âu đang được kỳ vọng mở ra nhiều cơ hội cho các mặt hàng nông sản của Việt Nam như thủy sản, đồ gỗ, gạo...
"Theo cam kết trong EVFTA, EU sẽ giành cho Việt Nam hạn ngạch 80.000 tấn gạo (thuế 0%) đối với gạo xay xát và gạo thơm, đồng thời xóa bỏ thuế đối với tấm trong 5 năm. Đây là cơ hội để đẩy mạnh xuất khẩu gạo sang EU trong thời gian tới, bởi khu vực này đang tiêu thụ khoảng 2,5 triệu tấn gạo/năm" - ông Trần Thanh Hải, Phó Cục trưởng Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nhấn mạnh.
Cho đến thời điểm này, gạo Việt Nam vẫn còn là một cái tên xa lạ với thị trường EU. Năm 2019, Việt Nam chỉ xuất khẩu được một số lượng hạn chế gạo sang EU với giá trị khiêm tốn là 10,7 triệu USD.
Một trong những nguyên nhân dẫn đến việc gạo Việt khó tìm đường sang EU là bởi thuế suất mà EU đang áp lên gạo nhập khẩu từ Việt Nam khá cao, cụ thể là thuế tuyệt đối 175 EUR/tấn với gạo xay xát, 65 EUR/tấn với gạo tấm, 211 EUR/tấn với lúa. Nhưng với việc EVFTA chính thức có hiệu lực, mọi rào cản về thuế suất gần như được xóa bỏ.
Theo dự báo, xuất khẩu gạo vào EU đến năm 2025 sẽ tăng tới 60% so với hiện nay sau khi EVFTA chính thức có hiệu lực.
Xuất khẩu gỗ sang EU được kỳ vọng sẽ khởi sắc khi EVFTA chính thức có hiệu lực từ 1/8. Trong ảnh: Chế biến gỗ ghép thanh tại Công ty Hoàng Thông (Bình Dương).
Mặt hàng gỗ và các sản phẩm từ gỗ cũng được kỳ vọng sẽ bứt phá khi EVFTA chính thức có hiệu lực từ 1/8.
Theo số liệu thống kê từ Tổng cục Hải quan, trong tháng 6/2020, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tăng trở lại. Đáng chú ý, trong khối EU 27, xuất khẩu gỗ và sản phẩm gỗ tới thị trường Đức đạt 8,5 triệu USD trong tháng 6/2020, tăng 86,7% so với cùng kỳ năm 2019.
Việt Nam là thị trường cung cấp đồ nội thất lớn thứ 11 cho Đức, chỉ chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng lượng nhập khẩu nên vẫn còn cơ hội để tăng thị phần.
Theo Hiệp hội Gỗ và Lâm sản Việt Nam, cả nước có hơn 4.600 doanh nghiệp sản xuất, chế biến đồ gỗ. Hiện, các doanh nghiệp kỳ vọng, EVFTA chính thức có hiệu lực sẽ giúp cho ngành gỗ có những đột phá trong xuất khẩu.
EVFTA sẽ giúp doanh nghiệp gỗ Việt Nam tiệm cận vị trí mắt xích quan trọng trong chuỗi cung ứng sản phẩm gỗ hiện có với khách hàng EU, tạo hiệu ứng lan tỏa tích cực đến các chuỗi cung ứng đồ gỗ toàn cầu như Mỹ, Nhật Bản.
Trong khi đó, theo nhận định của Tổng cục Thủy sản (Bộ Nông nghiệp và Phát triển nông thôn), ngoài cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu, EVFTA chính thức có hiệu lực sẽ giúp sản phẩm thủy sản Việt Nam tăng khả năng cạnh tranh so với các đối thủ chưa có FTA với EU như Ấn Độ, Thái Lan, Bangladesh hay Indonesia bởi khi EVFTA có hiệu lực, khoảng 212 dòng thuế của ngành thủy sản có thuế suất cơ sở từ 0-22%.
Xuất khẩu tôm sẽ được hưởng ưu đãi về thuế khi EVFTA chính thức có hiệu lực. Ảnh: I.T
Ngoài ra, ngành thủy sản cũng sẽ có cơ hội thu hút giới đầu tư nước ngoài, hiện đại hóa công nghệ chế biến và nâng cao chất lượng sản phẩm.
Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản Việt Nam (VASEP) nhận dịnh, tôm chính là mặt hàng được hưởng lợi khi EVFTA chính thức có hiệu lực.
Hiện, mặt hàng này đang chịu thuế suất khá cao (tôm tươi thuế suất 4,2%) nhưng sẽ về 0% ngày khi EVFTA chính thức có hiệu lực, tôm luộc (đang chịu mức thuế 15%) sẽ giảm thuế sau 3-7 năm.
Cá ngừ đông lạnh, cá ngừ hộp cũng sẽ được hưởng lợi nhiều khi mức thuế giảm về 0% sau khi EVFTA có hiệu lực và hạn ngạch cũng nâng lên hơn 10.000 tấn/năm.
Ngoài ra, nhiều mặt hàng chủ lực khác của ngành thủy sản cũng được hưởng ưu đãi để có thể gia tăng xuất khẩu vào EU trong thời gian tới.
"EVFTA sẽ tạo bước đệm để ngành thuỷ sản đi sâu hơn vào thị trường tiêu thụ thủy sản khổng lồ, với dân số trên 500 triệu người, thu nhập bình quân cao, mức tiêu thụ bình quân các sản phẩm thủy sản thuộc hàng đầu thế giới" - VASEP nhận định.
Những cam kết trong EVFTA được kỳ vọng sẽ mở rộng thị trường cho hàng hóa xuất khẩu có thế mạnh của Việt Nam như nông sản nhiệt đới, thủy sản, giày dép, dệt may, đồ gỗ... Việt Nam cũng tiếp cận các sản phẩm ôtô, dược phẩm, hóa chất, máy móc, thiết bị phụ trợ... của EU.
Theo nghiên cứu của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, cùng với Hiệp định Bảo hộ đầu tư EU - Việt Nam (EVIPA), EVFTA dự kiến sẽ thúc đẩy GDP của Việt Nam tăng thêm 4,6% và xuất khẩu sang EU tăng thêm 42,7% vào năm 2025. Ủy ban châu Âu ước tính GDP của EU sẽ tăng thêm 29,5 tỷ USD và xuất khẩu sang Việt Nam tăng 29% vào năm 2035.
Trong 18 năm gần nhất, kim ngạch thương mại 2 chiều Việt Nam - EU đã tăng gần 14 lần từ mức 4,1 tỷ USD năm 2000 lên 56,45 tỷ USD năm 2019. Trong đó, EU là thị trường xuất khẩu lớn thứ hai của Việt Nam (sau Mỹ), còn Việt Nam là đối tác thương mại lớn thứ hai của EU (sau Singapore) tại ASEAN.
"Vua tôm" Minh Phú nói phí vận chuyển tôm nội địa quá cao, ngành chức năng nói gì? Mới đây, trong một cuộc hội nghị về logistics, ông Lê Văn Quang - Chủ tịch HĐQT Công ty CP Tập đoàn Minh Phú nêu chi phí vận chuyển tôm từ TP.HCM ra Hà Nội quá cao, cản đường tiêu thụ nông sản của nhiều doanh nghiệp. Cục Xuất nhập khẩu (Bộ Công Thương) nói gì về nhận định này? Nhận diện đúng...