Ngân hàng VP bank đòi nợ kiểu chặn giữa đường, lấy ô tô của khách hàng?
Đang đi xe trên đường, anh T. bỗng nhiên bị một nhóm người tự xưng là cán bộ của ngân hàng VP bank đến chặn đường và lấy đi chiếc xe ô tô.
Theo thông tin phản ánh từ khách hàng với báo chí vào thời điểm ngày 2/11/2018, khoảng 15h30, anh B.D.T đang đưa người nhà đi cấp cứu tới cổng trường ĐH KHXH&NV thì bỗng dưng có một nhóm người đi hai ôtô và bốn xe máy dừng xe, chặn đầu đuôi và yêu cầu anh Thành đưa xe về bãi để thanh toán khoản nợ của ngân hàng VPBank.
Lúc đó Anh T. nhiều lần yêu cầu nhóm người này xuất trình giấy giới thiệu, giấy CMND nhưng người đàn ông tự giới thiệu là cán bộ của ngân hàng VPBank đã không xuất trình được mà chỉ đưa ra 01 quyết định của Tổng Giám đốc VP Bank AMC (nhưng do trưởng phòng thu hồi nợ Vũ Ngọc Quang ký).
Anh T. và bệnh nhân đã yêu cầu đưa người nhà đi cấp cứu rồi giải quyết sau nhưng nhóm người này không đồng ý và rất to tiếng. Trong khi đó, người nhà anh T. đang mang thai hơn 8 tháng, chỉ đến khi người nhà anh Thành ngất trên xe thì nhóm người này yêu cầu anh T. ký vào một biên bản bàn giao/ thu giữ tài sản họ mới đồng ý lái xe đưa anh Thành và bệnh nhân đi cấp cứu.
Người tự xưng là cán bộ của ngân hàng đưa giấy cho a T.
Khi tới bệnh viện nhóm người này tự ý đánh xe đi, không hỏi ý kiến, không thông báo cho anh T. biết mang xe về đâu, xe không niêm phong, cho tới giờ này khách hàng vẫn chưa biết xe mình ở đâu, đơn vị nào giữ.
Với sự việc được phản ánh như trên, đây có phải hiện tượng cưỡng đoạt tài sản của khách hàng?
Ngân hàng VP Bank có thẩm quyền này hay không hay đang làm thay công tác của cơ quan tố tụng?
Phóng viên Thời báo Doanh Nhân đã liên hệ với ngân hàng VP Bank nhưng đến nay ngân hàng vẫn chưa có thông tin phản hồi.
Theo luật sư Đặng Văn Cường – Trưởng văn phòng luật sư Chính Pháp, thì với những thông tin ở trên thì việc thu hồi xe ô tô như vậy là chưa phù hợp với quy định pháp luật. Cần làm rõ thỏa thuận trong hợp đồng thế chấp về việc thu giữ tài sản.
Hiện nay, pháp luật chưa hoàn thiện cơ sở pháp lý về việc thu giữ tài sản thế chấp bởi vậy việc thu giữ tài sản cần tuân thủ theo các quy định pháp luật. Cũng theo luật sư Cường thì thu giữ tài sản là một hình thức, biện pháp cưỡng chế theo thỏa thuận từ trước của hai bên, nội dung này được ghi nhận trong hợp đồng thế chấp.
Tuy nhiên, việc thu giữ tài sản thế chấp không được gây tổn hại tới tính mạng, sức khoẻ, danh dự nhân phẩm của người khác . Việc thu giữ tài sản phải đúng thẩm quyền, có báo trước và cần có sự phối hợp với chính quyền địa phương để đảm bảo ổn định trật tự xã hội, an toàn xã hội.
Trong vụ việc này, nếu thấy quyền và lợi ích hợp pháp của mình bị xâm hại thì chủ xe ô tô có quyền trình báo sự việc với công an để được giải quyết hoặc khởi kiện tới Toà án để được giải quyết theo thủ tục tố tụng dân sự.
Theo luật pháp, việc thu giữ tài sản thế chấp được quy định tại Điều 7, Nghị quyết 42/2017/NQ-QH14, cụ thể như sau: Quyền thu giữ tài sản bảo đảm
Video đang HOT
1. Bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu có nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm kèm theo đầy đủ giấy tờ, hồ sơ pháp lý của tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu để xử lý theo thỏa thuận trong hợp đồng bảo đảm hoặc trong văn bản khác (sau đây gọi là hợp đồng bảo đảm) và quy định của pháp luật về giao dịch bảo đảm.
Trường hợp bên bảo đảm, bên giữ tài sản không giao tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu để xử lý thì tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu được thu giữ tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều này.
2. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu của bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi đáp ứng đầy đủ các điều kiện sau đây:
a) Khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định tại Điều 299 của Bộ luật Dân sự;
b) Tại hợp đồng bảo đảm có thỏa thuận về việc bên bảo đảm đồng ý cho tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài có quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu khi xảy ra trường hợp xử lý tài sản bảo đảm theo quy định của pháp luật;
c) Giao dịch bảo đảm hoặc biện pháp bảo đảm đã được đăng ký theo quy định của pháp luật;
d) Tài sản bảo đảm không phải là tài sản tranh chấp trong vụ án đã được thụ lý nhưng chưa được giải quyết hoặc đang được giải quyết tại Tòa án có thẩm quyền; không đang bị Tòa án áp dụng biện pháp khẩn cấp tạm thời; không đang bị kê biên hoặc áp dụng biện pháp bảo đảm thi hành án theo quy định của pháp luật;
đ) Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu đã hoàn thành nghĩa vụ công khai thông tin theo quy định tại khoản 3 hoặc khoản 4 Điều này.
3. Chậm nhất là 15 ngày trước ngày tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là bất động sản, tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thực hiện công khai thông tin về thời gian, địa điểm thu giữ tài sản bảo đảm, tài sản bảo đảm được thu giữ, lý do thu giữ theo quy định sau đây:
a) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình;
b) Gửi văn bản thông báo cho Ủy ban nhân dân cấp xã và cơ quan Công an nơi có tài sản bảo đảm;
c) Niêm yết văn bản thông báo tại trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm và trụ sở Ủy ban nhân dân cấp xã nơi có tài sản bảo đảm;
d) Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.
4. Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thực hiện công khai thông tin về việc tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm là động sản theo quy định sau đây:
a) Đăng tải thông tin trên trang thông tin điện tử của mình và thông báo về việc thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho Ủy ban nhân dân cấp xã nơi bên bảo đảm đăng ký địa chỉ theo hợp đồng bảo đảm trước khi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm;
b) Thông báo cho bên bảo đảm bằng văn bản trước thời điểm thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm bằng cách gửi theo đường bưu điện có bảo đảm đến địa chỉ của bên bảo đảm theo hợp đồng bảo đảm hoặc gửi trực tiếp cho bên bảo đảm.
5. Chính quyền địa phương các cấp và cơ quan Công an nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm, trong phạm vi chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của mình thực hiện việc bảo đảm an ninh, trật tự, an toàn xã hội trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm theo đề nghị của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu. Trường hợp bên bảo đảm không hợp tác hoặc không có mặt theo thông báo của tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, đại diện Ủy ban nhân dân cấp xã nơi tiến hành thu giữ tài sản bảo đảm tham gia chứng kiến và ký biên bản thu giữ tài sản bảo đảm.
6. Tổ chức tín dụng chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc tổ chức tín dụng đó; tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu chỉ được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm cho tổ chức tín dụng bán nợ, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thuộc tổ chức tín dụng bán nợ.
Tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu, tổ chức được ủy quyền thu giữ tài sản bảo đảm không được áp dụng các biện pháp vi phạm điều cấm của pháp luật trong quá trình thu giữ tài sản bảo đảm.
7. Bộ Công an có trách nhiệm chỉ đạo cơ quan Công an các cấp thực hiện nhiệm vụ giữ gìn an ninh, trật tự khi tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, tổ chức mua bán, xử lý nợ xấu thực hiện quyền thu giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại Nghị quyết này.
Việc tranh chấp liên quan tới xử lý nợ xấu quy định tại Điều 2, Nghị quyết 03/2018/NQ-HĐTP ngày 15/5/2018 của HĐTP TAND tối cao hướng dẫn về xử lý nợ xấu, tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu quy định như sau: Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm, tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu theo quy định tại khoản 1 Điều 8 của Nghị quyết số 42/2017/QH14
1. Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tranh chấp về việc bên bảo đảm, bên giữ tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu không giao tài sản bảo đảm hoặc giao không đúng theo yêu cầu của bên nhận bảo đảm, bên có quyền xử lý tài sản bảo đảm để xử lý tài sản đó nhằm giải quyết nợ xấu.
Ví dụ: Ngân hàng thương mại cổ phần A cho Công ty trách nhiệm hữu hạn B vay 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng). Để bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng vay, Công ty trách nhiệm hữu hạn B (bên bảo đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng thương mại cổ phần A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ xấu, Ngân hàng thương mại cổ phần A yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn B giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn B không giao. Tranh chấp này là “Tranh chấp về nghĩa vụ giao tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu”.
2. Tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu là tranh chấp về việc xác định người có quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu.
Ví dụ: Ngân hàng thương mại cổ phần A cho Công ty trách nhiệm hữu hạn B vay 5.000.000.000 đồng (Năm tỷ đồng). Để bảo đảm cho khoản vay theo hợp đồng vay, Công ty trách nhiệm hữu hạn B (bên bảo đảm) đã thế chấp ngôi nhà X thuộc sở hữu của mình cho Ngân hàng thương mại cổ phần A (bên nhận bảo đảm). Khoản vay này được xác định là khoản nợ xấu, Ngân hàng thương mại cổ phần A yêu cầu Công ty trách nhiệm hữu hạn B giao ngôi nhà X (tài sản bảo đảm) để xử lý nhằm giải quyết nợ xấu nhưng Công ty trách nhiệm hữu hạn B không đồng ý vì cho rằng mình có quyền tự chuyển nhượng ngôi nhà X để giải quyết nợ xấu. Tranh chấp này là “Tranh chấp về quyền xử lý tài sản bảo đảm của khoản nợ xấu”.
Trang Lê
Theo tbdn.com.vn
Quyền lợi người gửi tiền khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi phá sản
Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (BHTG) mất khả năng chi trả hoặc phá sản, người được BHTG vừa có khoản tiền gửi vừa có khoản nợ tại tổ chức đó được trả tiền bảo hiểm như thế nào?
Khách hàng gửi tiền tại Quỹ tín dụng nhân dân Mộc Hóa
1. Hỏi: Khi tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi (BHTG) mất khả năng chi trả hoặc phá sản, người được BHTG vừa có khoản tiền gửi vừa có khoản nợ tại tổ chức đó được trả tiền bảo hiểm như thế nào?
Khoản 3 Điều 25 Luật BHTG quy định: "Trường hợp người được BHTG có khoản nợ tại tổ chức tham gia BHTG thì số tiền gửi được bảo hiểm là số tiền còn lại sau khi trừ khoản nợ đó".
Như vậy, số tiền bảo hiểm được chi trả đối với mỗi cá nhân được BHTG được xác định như sau:
(1) Trường hợp người được BHTG có tổng các khoản nợ tại tổ chức tham gia BHTG nhỏ hơn tổng số tiền gửi của họ tại đó thì số tiền bảo hiểm được chi trả là số tiền còn lại sau khi đối trừ tổng các khoản nợ (gốc và lãi) đến thời điểm chi trả nhưng tối đa không vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm.
(2) Trường hợp người được BHTG có tổng các khoản nợ (gốc và lãi) tại tổ chức tham gia BHTG lớn hơn số tiền gửi thì BHTGVN không có nghĩa vụ chi trả cho trường hợp này.
2. Hỏi: Khi tổ chức tham gia BHTG mất khả năng chi trả hoặc phá sản, số tiền bảo hiểm được trả cho khoản tiền gửi tiết kiệm của người thụ hưởng chưa thành niên và người gửi tiền là cha/mẹ/người giám hộ được xác định như thế nào?
- Điều 16 Bộ luật Dân sự 2015 quy định: "Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân là khả năng của cá nhân có quyền dân sự và nghĩa vụ dân sự.
Mọi cá nhân đều có năng lực pháp luật dân sự như nhau.
Năng lực pháp luật dân sự của cá nhân có từ khi người đó sinh ra và chấm dứt khi người đó chết".
Điều 55, Điều 56 Bộ luật Dân sự 2015 cũng quy định, người giám hộ có nghĩa vụ đại diện cho người được giám hộ trong các giao dịch dân sự và quản lý tài sản của người được giám hộ.
Như vậy, người chưa thành niên là cá nhân có năng lực pháp luật dân sự độc lập và bình đẳng. Người giám hộ là cha/mẹ đại diện cho người chưa thành niên trong các giao dịch dân sự và quản lý tài sản của người đó. Số tiền bảo hiểm được trả cho cá nhân người chưa thành niên (người thụ hưởng) được xác định độc lập theo quy định của pháp luật về BHTG, tối đa không vượt quá hạn mức trả tiền bảo hiểm hiện hành và không liên quan đến việc xác định số tiền bảo hiểm trả cho cha/mẹ/người giám hộ của cá nhân đó.
Tuyên truyền chính sách bảo hiểm tiền gửi tới quỹ tín dụng nhân dân
Vừa qua, Chi nhánh Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam (BHTGVN) tại TP HCM tổ chức tuyên truyền chính sách BHTG tới hệ thống quỹ tín dụng nhân dân (QTDND) trên địa bàn tỉnh Tây Ninh. Đây là dịp để BHTGVN chia sẻ thông tin chính sách BHTG và hoạt động đến các QTDND trên địa bàn tỉnh với mong muốn đồng hành với các tổ chức tham gia BHTG trong quá trình thực hiện nhiệm vụ bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, vì sự ổn định của hệ thống các tổ chức tín dụng (TCTD) và sự phát triển an toàn, lành mạnh của hoạt động ngân hàng.
BHTGVN đã giới thiệu về hoạt động và đánh giá việc triển khai các văn bản, quy định, hướng dẫn liên quan, đặc biệt là Quy chế thông tin báo cáo về tiền gửi được bảo hiểm có hiệu lực từ ngày 01/07/2018. Các đại biểu tham dự sự kiện đã thảo luận một số nội dung về hạn mức trả tiền bảo hiểm, phí BHTG, quy định về cho vay đặc biệt đối với TCTD được kiểm soát đặc biệt theo Thông tư 01/2018/TT-NHNN của NHNN ngày 26/01/2018 và Quyết định 593/QĐ-BHTG của BHTGVN ngày 07/09/2018.
Đại diện lãnh đạo BHTGVN khẳng định, thông qua các sự kiện tuyên truyền, BHTGVN đã lắng nghe những nguyện vọng, ý kiến từ cơ sở, từ đó tổng hợp, đề xuất Ngân hàng Nhà nước trình Chính phủ có những điều chỉnh kịp thời nhằm triển khai có hiệu quả chính sách BHTG, góp phần bảo vệ tốt hơn quyền lợi người gửi tiền, đáp ứng yêu cầu thực tiễn hoạt động BHTG tại Việt Nam.
Theo Báo Mới
Công ty của Cường "đô la" tồn kho bất động sản gần 6000 tỷ Theo báo cáo tài chính quý 3 và 9 tháng đầu năm 2018 của CTCP Quốc Cường Gia Lai, lũy kế 9 tháng đầu năm doanh thu của công ty chỉ đạt 213 tỷ đồng, giảm 69% so với cùng kỳ năm ngoái. Tổng lợi nhuận kế toán sau thuế 9 tháng đầu năm của công ty là 16 tỷ đồng, giảm mạnh...