Ngân hàng tăng trích lập dự phòng, thêm ’sức đề kháng’ trước bão COVID-19
Trong bối cảnh nguy cơ nợ xấu tiếp tục tăng mạnh, nhiều ngân hàng đã mạnh tay trích lập dự phòng rủi ro cho vay, tăng “sức đề kháng” trước bão COVID-19.
Mới đây nhất, ông Trần Minh Bình, Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank) đã tuyên bố ngân hàng này sẽ tăng tỷ lệ bao phủ nợ xấu từ 119% hồi cuối tháng 9/2021 lên mức 169% trong 2 tháng cuối năm; chi phí dự phòng rủi ro cũng tăng từ mức 14.000 tỷ đồng lên khoảng 17.000 tỷ đồng.
Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank, Hà Nội. Ảnh minh họa: Trần Việt/TTXVN
Theo ông Bình, đây không chỉ là chi phí dự phòng đảm bảo cho các khoản nợ xấu phát sinh do dịch COVID-19 mà còn là bộ đệm cho ngân hàng trong năm 2022. “Chúng tôi tăng cường sự thận trọng, để nếu năm 2022 có những biến cố thì VietinBank vẫn có bộ đệm dự phòng tốt”, ông Bình khẳng định.
Tính đến ngày 30/9/2021, dự phòng rủi ro cho vay khách hàng của VietinBank là 21.500 tỷ đồng, tăng 8.900 tỷ đồng (tương đương tăng 71%) so với đầu năm. Chi phí dự phòng rủi ro cho vay trích lập trong 9 tháng năm 2021 là 14.000 tỷ đồng, tăng 2.500 tỷ đồng (tương đương tăng 22%) so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong quý III/2021, VietinBank trích lập 5.500 tỷ đồng.
VietinBank đẩy mạnh trích lập dự phòng khi tỷ lệ nợ xấu của ngân hàng tăng lên 1,67%, cao nhất trong 4 quý gần đây.
Trong khi đó, tại Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), chi phí dự phòng đã tăng lên 8.012 tỷ đồng trong 9 tháng qua, tăng 33% so với cùng kỳ năm ngoái. Riêng trong quý III, Vietcombank cũng trích lập dự phòng 2.500 tỷ đồng, tăng 25% so với cùng kỳ năm trước. Tỷ lệ bao phủ nợ xấu giảm mạnh từ 368% hồi đầu năm xuống còn 243%.
Nguyên nhân chính là do nợ xấu tại Vietcombank đã tăng gấp đôi sau 9 tháng. Số dư nợ xấu từ 5.230 tỷ đồng hồi đầu năm đã lên 10.884 tỷ đồng khi kết thúc quý III. Kéo theo đó, tỷ lệ nợ xấu cũng tăng từ 0,62% lên 1,16% gây áp lực lên hoạt động trích lập dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng này.
Video đang HOT
Còn tại Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV), chi phí trích lập dự phòng trong quý III đã tăng 30% lên khoảng 7.500 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng, BIDV đã trích lập dự phòng tới 23.194 tỷ đồng, tăng 44% so với cùng kỳ.
Đây cũng đang là ngân hàng có quy mô nợ xấu lớn trong số các ngân hàng niêm yết dù đi ngang ở mức 21.433 tỷ đồng. Tỷ lệ nợ xấu giảm từ 1,76% hồi đầu năm xuống còn 1,61%.
Báo cáo tài chính quý III của nhiều ngân hàng thương mại khác cũng cho thấy chi phí dự phòng rủi ro tăng gấp nhiều lần trong 9 tháng năm 2021.
Cụ thể, tính đến hết ngày 30/9/2021, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đã dành hơn 2.812 tỷ đồng cho dự phòng rủi ro, cao gấp 4 lần so với cùng kỳ năm trước. Riêng trong quý III, chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của ngân hàng này cũng tăng đến hơn 5 lần so với cùng kỳ, lên mức 820 tỷ đồng.
Chi phí dự phòng rủi ro tín dụng của Ngân hàng TMCP Việt Nam Thương Tín (VietBank) trong quý III tăng gấp đôi cùng kỳ, lên mức 51 tỷ đồng; lũy kế 9 tháng, chi phí dự phòng tăng 120% lên 78 tỷ đồng.
Ngân hàng TMCP Việt Nam Thịnh Vượng (VPBank) cũng đã chủ động trích lập dự phòng rủi ro cho các khoản nợ bị ảnh hưởng bởi dịch. Chi phí dự phòng hợp nhất đến cuối tháng 9 là 13.631 tỷ đồng. Riêng trong quý III, ngân hàng đã dành 4.979 tỷ đồng cho chi phí dự phòng, tăng 18,6% so với quý trước đó.
Ngân hàng TMCP Bưu điện Liên Việt (LienVietPostBank) trong quý III tăng mạnh 157% chi phí dự phòng lên mức 271 tỷ đồng; lũy kế sau 9 tháng là 887 tỷ đồng, tăng 176% so với 9 tháng năm 2020.
Hay như tại Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) dự phòng rủi ro tín dụng trong quý III tăng 223% so cùng kỳ lên 1.345 tỷ đồng. Lũy kế 9 tháng, TPBank tăng gần gấp đôi chi phí dự phòng rủi ro tín dụng so với cùng kỳ, trích gần 2.349 tỷ đồng.
Dự phòng rủi ro vốn được coi như “của để dành” của các ngân hàng, là khoản tiền được trích lập để dự phòng cho những tổn thất có thể xảy ra do khách hàng không thực hiện nghĩa vụ theo cam kết. Dự phòng rủi ro được tính theo dư nợ gốc và hạch toán vào chi phí hoạt động của các tổ chức tín dụng. Việc xác trích lập dự phòng rủi ro tín dụng được căn cứ vào việc phân loại nợ tại ngân hàng.
Theo quy định, tỷ lệ trích lập dự phòng hiện nay đối với từng nhóm nợ như sau: 0% với nợ tiêu chuẩn – nợ nhóm 1; 5% với nợ cần chú ý trích lập – nợ nhóm 2; 20% với nợ dưới chuẩn – nợ nhóm 3; 50% với nợ nghi ngờ – nợ nhóm 4 và 100% với nợ có khả năng mất vốn – nợ nhóm 5. Ngoài ra, các ngân hàng còn phải trích lập dự phòng chung với tổng dư nợ (từ nhóm 1 đến nhóm 4) theo tỷ lệ 0,75%.
Tuy nhiên, theo Thông tư 14/2021/TT-NHNN sửa đổi, bổ sung Thông tư 01/2020/TT-NHNN và Thông tư 03/2021/TT-NHNN quy định về việc tổ chức tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài cơ cấu lại thời hạn trả nợ, miễn, giảm lãi, phí, giữ nguyên nhóm nợ nhằm hỗ trợ khách hàng chịu ảnh hưởng bởi dịch COVID-19, ngân hàng bắt buộc phải trích 30% dự phòng phần dư nợ tái cơ cấu vào cuối năm nay và 100% trong 2 năm tới.
Do đó, áp lực trích dự phòng rủi ro của các tổ chức tín dụng đối với các khoản nợ cơ cấu cho khách hàng là rất lớn. Thậm chí theo TS. Nguyễn Quốc Hùng, Tổng Thư ký Hiệp hội Ngân hàng Việt Nam, ngay cả những khoản nợ nhóm 1 (nợ đủ tiêu chuẩn, có khả năng thu hồi đầy đủ cả gốc và lãi) cũng có thể bị ảnh hưởng. Bởi khi chuỗi cung ứng bị đứt gãy do dịch bệnh, doanh nghiệp lâm vào khó khăn thì nguy cơ nợ xấu trong tương lai là rất cao.
Theo Ngân hàng Nhà nước, đến ngày 28/9/2021, các tổ chức tín dụng đã cơ cấu lại thời hạn trả nợ đối với hơn 272.100 khách hàng với dư nợ cho vay khoảng 331.000 tỷ đồng, tương đương 3,8% tổng dư nợ của toàn hệ thống. Tổng số tiền lãi giảm lũy kế từ 15/7 đến 30/9 của 16 ngân hàng là khoảng 12.236 tỷ đồng, đạt 59,36% so với cam kết.
Đánh giá độ trễ của đại dịch COVID-19 tác động tới ngành ngân hàng sẽ kéo dài sang năm 2022, Ngân hàng Nhà nước dự báo tỷ lệ nợ xấu nội bảng và nợ xấu tiềm ẩn của hệ thống ngân hàng cuối năm 2021 có thể tăng lên từ 7,1-7,7%, gấp đôi so với cuối năm 2020. Vì vậy, việc tăng nguồn lực dự phòng rủi ro của các ngân hàng lại càng trở nên cấp thiết.
Ngân hàng tiếp tục hạ lãi suất huy động
Khảo sát biểu lãi suất của các ngân hàng trong tuần đầu tháng 9/2021 cho thấy lãi suất huy động tại nhiều ngân hàng tiếp tục có xu hướng điều chỉnh giảm.
Khách hàng giao dịch tại hội sở chính Vietcombank, 198 Trần Quang Khải, Hà Nội. Ảnh: Trần Việt/TTXVN
Tại các ngân hàng lớn như Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) và Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam (Agribank), mức lãi suất huy động cao nhất đã giảm nhẹ từ 5,6%/năm xuống còn 5,5%/năm đối với các kỳ hạn dài từ 12-36 tháng.
Với mức lãi suất hiện tại, BIDV và Agribank đang niêm yết biểu lãi suất tương đồng với Ngân hàng TMCP Ngoại thương Việt Nam (Vietcombank), thuộc nhóm lãi suất thấp nhất trong hệ thống. Riêng Ngân hàng TMCP Công Thương Việt Nam (VietinBank), lãi suất tiết kiệm cao nhất vẫn đang giữ ở mức 5,6%/năm với khoản gửi từ 12 tháng trở lên. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn từ 1-3 tháng ở nhóm ngân hàng này hiện ở mức từ 3,1 - 3,4%/năm; lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 6-9 tháng niêm yết là 4%/năm.
Tại các ngân hàng thương mại cổ phần, lãi suất nhiều kỳ hạn cũng được điều chỉnh giảm trung bình từ 0,2 - 0,4%/năm. Cá biệt, có ngân hàng giảm đến gần 1%/năm so với biểu lãi suất đầu tháng 8/2021. Cụ thể, Ngân hàng TMCP Tiên Phong (TPBank) đã giảm mạnh lãi suất gửi tiết kiệm kỳ hạn 18 tháng xuống còn 6%/năm, thay vì mức 6,8%/năm trước đó; lãi suất tiết kiệm kỳ hạn 9 tháng cũng giảm mạnh từ 6,2%/năm xuống còn 5,7%/năm. Đối với khách hàng gửi tiết kiệm trực tuyến, TPBank áp dụng lãi suất cao nhất là 6,15%/năm, giảm tới 0,75%/năm so với hồi đầu tháng 8.
Ngân hàng TMCP Sài Gòn Thương Tín (Sacombank) cũng công bố mức lãi suất tiết kiệm cao nhất giảm mạnh từ 6,1%/năm xuống còn 5,8%/năm cho kỳ hạn 36 tháng. Lãi suất tiền gửi kỳ hạn 9 tháng giảm 0,4%/năm xuống 4,5%/năm; kỳ hạn 3 tháng, 1 tháng cũng chung xu hướng, hiện còn lần lượt là 3%/năm và 2,9%/năm, giảm 0,2 - 0,3%/năm so với trước.
Số liệu thống kê mới nhất của Ngân hàng Nhà nước cho thấy, mặt bằng lãi suất đang ở mức thấp nhất trong nhiều năm. Cụ thể, lãi suất tiền gửi bằng tiền đồng (VND) bình quân của các ngân hàng thương mại trong nước ở mức 0,1 - 0,2%/năm đối với tiền gửi không kỳ hạn và có kỳ hạn dưới 1 tháng; từ 3,3 - 3,5%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 1 tháng đến dưới 6 tháng và 4,2 - 5,7%/năm đối với tiền gửi có kỳ hạn từ 6 tháng đến 12 tháng. Đối với tiền gửi có kỳ hạn từ trên 12 tháng đến 24 tháng, mức lãi suất bình quân các ngân hàng đang trả cho khách hàng là 5,4 - 6,8%/năm và cao nhất tới 6,1 - 6,9% đối với kỳ hạn trên 24 tháng.
Tuy vậy, vẫn có một số ngân hàng huy động với lãi suất cao nhất trên 7%/năm. Cụ thể, Ngân hàng TMCP Á Châu (ACB) đang trả lãi suất cao nhất khoảng 7 - 7,3%/năm cho tiền gửi tiết kiệm ở kỳ hạn 13 tháng; Ngân hàng TMCP Kỹ Thương (Techcombank) trả lãi suất cao nhất tới 7,1%/năm cho tiền gửi tiết kiệm thường trả lãi cuối kỳ ở kỳ hạn 12 tháng; Ngân hàng TMCP Hàng hải Việt Nam (MSB) với lãi suất 7%/năm, niêm yết tại kỳ hạn 12 tháng và 13 tháng. Các mức lãi suất này thường kèm theo điều kiện về số tiền gửi từ vài chục đến vài trăm tỷ đồng.
Áp lực giảm chi phí đầu vào để giảm lãi suất cho vay, hỗ trợ doanh nghiệp và nền kinh tế khiến nhiều ngân hàng không thể duy trì lãi suất tiết kiệm ở mức hấp dẫn như trước. Dù vậy, lãnh đạo một ngân hàng chia sẻ, việc cho vay cũng không hề dễ dàng do ảnh hưởng tiêu cực của dịch bệnh. Doanh nghiệp bị đứt gãy chuỗi sản xuất, tiêu thụ, dòng tiền gián đoạn không thể quay vòng vốn, khó đáp ứng đủ các yêu cầu về phương án sản xuất, dòng tiền trả nợ... để vay mới. Do đó, ngân hàng phải cùng đồng hành tư vấn tài chính, hỗ trợ tìm kiếm các đối tác cung ứng nguồn nguyên liệu, tiêu thụ sản phẩm để giúp khách hàng duy trì và phục hồi sản xuất.
Theo TS. Cấn Văn Lực, Chuyên gia kinh tế trưởng của BIDV, nếu lãi suất tiền gửi quá thấp, người dân và doanh nghiệp sẽ có xu hướng đầu tư vào những kênh khác sinh lời cao hơn như bất động sản, chứng khoán, vàng, tiền kỹ thuật số... Khi đó, hệ thống ngân hàng vừa thiếu tiền gửi, vừa hứng chịu rủi ro thanh khoản, lại vừa thiếu vốn phục vụ sản xuất kinh doanh, tiêu dùng.
Để giúp doanh nghiệp "vượt bão" COVID-19, bên cạnh việc duy trì lãi suất cho vay ở mức thấp, Chuyên gia kinh tế, TS. Nguyễn Trí Hiếu đề xuất, cần lập Tổ hợp tín dụng đi kèm với Quỹ Bảo lãnh tín dụng với tổng hạn mức cho vay là 300.000 tỷ đồng với sự tham gia của các ngân hàng theo tỷ lệ tham gia khoảng 3% dư nợ của mỗi ngân hàng. Thời hạn cho vay các doanh nghiệp và hộ kinh doanh là 5 năm; trong đó, 2 năm đầu vay tuần hoàn và 3 năm sau trả dần trên dư nợ vay vào cuối năm thứ 2. Điều kiện vay là tín chấp với lãi suất từ 3-5%/năm.
Sớm hoàn thiện khung khổ pháp lý về xử lý nợ xấu Dịch bệnh COVID-19 tiếp tục diễn biến phức tạp đã dẫn đến khả năng trả nợ của khách hàng vay suy giảm. Nợ xấu của các tổ chức tín dụng có khả năng tiếp tục tăng mạnh trong thời gian tới, cản trở sự phát triển của cả nền kinh tế. Khách hàng giao dịch tại Hội sở chính Vietcombank, Hà Nội. Ảnh...