Nên chăng chọn ‘ngũ danh thắng’ của Việt Nam?
Lâu nay, trong giới du lịch thường đề cập nhiều về ‘Tứ đại đỉnh đèo’, ‘ Tứ cực’ ở Việt Nam, song những thắng cảnh khác như núi, sông, hồ, rừng ít được nhắc tới.
Còn về thác thì lại càng ít hơn. Nên chăng chúng ta thống nhất cách gọi ‘ngũ danh’ khi đề cập đến những thắng cảnh tự nhiên trên dải đất hình chữ S.
Với độ cao 3.143m, Fansipan là đỉnh núi cao nhất của Việt Nam.
Ngũ danh đèo ở Việt Nam
Nhất: Ô Quy Hồ; dài 50km; độ cao 2.035m (đèo cao nhất); ranh giới Lai Châu và Lào Cai.
Nhì: Khau Phạ; dài 35km; độ cao 1.300m; Yên Bái.
Ba: Pha Đin; dài 32km; độ cao 1.648m; ranh giới Sơn La và Điện Biên.
Bốn: Mã Phí Lèng; dài 20km; độ cao 1.200m; Hà Giang; hiểm trở nhất.
Năm: Hải Vân; dài 20km; độ cao 500m; ranh giới Thừa Thiên Huế và Đà Nẵng; giáp biển, có đường hầm bộ dài nhất Asean (6.280m) và Hải Vân Quan (Thiên hạ đệ nhất hùng quan).
Đèo Pha Đin
Ngũ danh núi ở Việt Nam
Nhất: Fansipan; cao 3.143m; Lào Cai.
Nhì: Pasilung; cao 3.080m; Lai Châu; sát biên giới Việt Nam – Trung Quốc.
Ba: Putaleng; cao 3.049m; Lai Châu.
Bốn: Kỳ Quan San; cao 3.046m; ranh giới Lào Cai và Lai Châu.
Năm: Khuong Su Van; cao 3.012m; Lai Châu.
Tác giả và con gái trên đỉnh Fansipan
Ngũ danh rừng (vườn quốc gia) ở Việt Nam
Nhất: Phong Nha Kẻ Bàng (Quảng Bình), di sản thế giới với 123.326ha, gồm cả quần thể hang động như Sơn Đoòng, Thiên Đường, Phong Nha, Tiên Sơn, Tú Làn…
Video đang HOT
Nhì: Yok Đôn (Đắk Lắk) với 115.545ha; rừng khộp đặc dụng, rừng thưa lá rộng, rụng theo mùa, chủ yếu họ Dầu; khu bảo tồn voi.
Ba: Pù Mat (Nghệ An) với 91.113ha; giáp biên giới Việt Nam – Lào; có thác Kem hùng vĩ, rừng săng lẻ…
Bốn: Sông Tranh (Quảng Nam) với 76.670ha. Thành lập tháng 12/2020), khu bảo tồn hổ, nối rừng Trường Sơn và các di sản Hội An, Mỹ Sơn.
Năm: Cát Tiên (Đồng Nai, Lâm Đồng, Bình Phước) với 73.837ha, đón khách du lịch nhiều nhất, có sông Đồng Nai và hồ Trị An, nơi xem thú lý tưởng nhất Viêt Nam.
Bươm bướm trong rừng quốc gia Cúc Phương
Ngũ danh hồ ở Việt Nam
Nhất: Trị An 323km2 (Đồng Nai, hồ thủy điện thuộc sông Đồng Nai), công suất 400MW (thứ 6 Việt Nam); vương quốc cá lìm kìm, cá cơm nước ngọt.
Nhì: Sơn La 224km2 (Sơn La, sông Đà), công suất 2.400MW (đứng đầu Việt Nam).
Ba: Hòa Bình 218km2 (Hòa Bình, sông Đà); công suất 1.920MW (thứ 2 VN); nổi tiếng với cá lăng, cá trắm đen, cá thủy tinh (cá nến); các món cá nướng.
Bốn: Thác Bà 190km2 (Yên Bái, sông Chảy); công suất 108MW; khởi công năm 1964 (đầu tiên ở Việt Nam); lừng danh với cá bỗng, cá chày, cá thầu dầu (cá mương), cá nheo, cá ngạnh, chạch và mắm tép.
Năm: Nà Hang 90km2 (Tuyên Quang, sông Gâm); công suất 342MW; với các đặc sản cá anh vũ, cá chép dòn, cá rô đơn tính.
Cả 5 đều là hồ thủy điện, cảnh quan cực đẹp; có nhiều đảo (Thác Bà, gần 1.300 đảo).
Một góc hồ Trị An
Ngũ danh sông ở Việt Nam (tính chảy trong lãnh thổ)
Nhất: Đồng Nai (Tây Nguyên và Đông Nam bộ) dài 586km. Các phụ lưu là Đa Nhim, Đa Hoai, La Ngà, Bé, Sài Gòn, Vàm Cỏ. Có 20 thủy điện trên sông Đồng Nai và các phụ lưu.
Nhì: sông Đà 527km (Tây Bắc, Trung du); phụ lưu chính của sông Hồng với hàng chục chi lưu. Có 54 thủy điện lớn nhỏ trên sông Đà và chi lưu.
Ba: sông Hồng (sông Cái, Thao, Nhị Hà) 510km (Tây Bắc, Việt Bắc, đồng bằng sông Hồng). Phụ lưu là sông Đà, sông Lô cùng hàng chục chi lưu với nhiều thủy điện.
Bốn: sông Mã 410km (Điện Biên và Thanh Hóa) với 7 phụ lưu là sông Chu, Bưởi, Lũng, Luồng, Soi, Cầu Chày, Quan Hóa. Có 11 thủy điện trên dòng chính và phụ lưu.
Năm: sông Lam 362km (Nghệ An) với 6 phụ lưu là sông La, Hiếu, Ngàn Phố, Ngàn Sâu, Giăng, Năm Giải. Có 8 thủy điện trên dòng chình và phụ lưu.
Trong Ngũ Danh Sông Việt, chỉ sông Đồng Nai bắt nguồn và chảy trọn vẹn trên lãnh thổ Việt Nam. Sông Hồng, Sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc; sông Mã, sông Lam bắt nguồn từ Lào. Sông Mekong 4.350km, dài thứ 12 thế giới nhưng chảy trên lãnh thổ Việt Nam chỉ 235km.
Sông Lam nối Nghệ An và Hà Tĩnh
Ngũ danh thác ở Việt Nam
Nhất: Đỗ Quyên (suối cùng tên) ở Lộc Trì, Phú Lộc, Thừa Thiên Huế; cao khoảng 300m; trong vườn quốc gia Bạch Mã (từng là Trại Trường Huấn luyện Hướng đạo Đông Dương trước 1945).
Nhì: thác Bạc (suối Mường Hoa), Sapa, Lào Cai; cao chừng 200m, dưới chân đèo Ô Quy Hồ. Thi thoảng có tuyết phủ vào mùa Đông.
Ba: Sương Mù (suối Gấu) ở Đa Mi (độ cao 700m), Hàm Thuận Bắc, Bình Thuận; cao khoảng 100m; phải trekking (đi bộ khó khan) 6km và có dây chuyên dùng xuống thác. Xã Đa Mi có các hồ thủy điện là Đa Mi (700ha), Hàm Thuận (2.500ha) và 3 thác lớn là Sương Mù, 9 Tầng, Mây Bay (Tè Trong)
Bốn: Bản Giốc (sông Quây Sơn) ở Đàm Thủy, Trùng Khánh, Cao Bằng. Thác cao 70m, rộng gần 300m, sâu 60m; ngay biên giới Việt Nam – Trung Quốc, hùng vĩ và đẹp nhất ASEAN. Cùng xã có Ngườm Ngao, động trên núi dài 2.144m.
Năm: thác Trắng (sông Phước Giang) ở Thanh An, Minh Long, Quảng Ngãi; cao 60m, còn gọi là thác Bạch Kim, xe hơi vào tận nơi; trên thác còn 2 tầng, có hồ rất đẹp.
Độ cao Ngũ Thác có sai số nhất định, cách tính chưa thống nhất (tính cả thác hay tầng cao nhất). Thác càng cao, dòng chảy càng hẹp.
Thác Đỗ Quyên
Ngũ danh cực ở Việt Nam (địa lý đất liền)
Cực Đông là mũi Đôi, ở Vạn Thịnh, Vạn Ninh, Khánh Hòa. Trước đây, cực Đông là mũi Điện (Mũi Đại Lãnh, Hòa Tâm, Đông Hòa, Phú Yên)
Cực Tây là đỉnh A Pa Chải, ở Sín Thầu, Mường Nhé, Điện Biên; ngã ba biên giới Việt Nam – Lào – Trung Quốc.
Cực Nam là mũi Cà Mau, ở Đất Mũi, Ngọc Hiển, Cà Mau.
Cực Bắc là đỉnh Lũng Cú, ở Lũng Cú, Đồng Văn, Hà Giang nhưng cực Bắc chính xác về tọa độ cách cột cờ Lũng Cú vài km về phía Bắc, trên sông Nho Quế (ranh giới Việt Nam – Trung Quốc).
Cầu Cửa Đại bắc qua sông Thu Bồn, nơi gần cực tâm của Việt Nam
Cực Tâm (trung tâm lãnh thổ Việt Nam) lâu nay dường như chưa ai đề cập. Tôi và Thạc sỹ Trương Hoàng Phương (tác giả Bản đồ Du lịch Việt Nam) tạm xác định, cực Tâm nằm ở tọa độ 15 49′, phía Nam sông Thu Bồn, gần cầu Cửa Đại (Hội An, Quảng Nam).
Theo tôi, Quảng Nam có thể làm hồ sơ, đề nghị Liên đoàn Bản đồ Địa chất Việt Nam công nhận để dựng biểu tượng.
Sông Vệ được chạm khắc trên Cửu đỉnh
Sông Vệ chưa phải là con sông lớn nhất, kỳ vĩ nhất trong bốn con sông lớn của Quảng Ngãi là Trà Khúc, Trà Bồng, Trà Câu và sông Vệ.
Thế nhưng, sông Vệ lại vinh dự được chọn khắc lên Dụ đỉnh, một trong Cửu đỉnh được đặt tại sân Đại nội Huế. Hơn 180 năm qua, Cửu đỉnh vẫn ở vị trí này, là bản nguyên gốc và duy nhất, chưa từng sửa chữa.
Dòng sông mùa lũ
Sông Vệ có chiều dài gần 90km, là hợp lưu của hai nhánh chính, một là từ núi Đồng Khố, tỉnh Bình Định chảy qua, một là từ KBang, tỉnh Gia Lai chảy về hòa chung dòng ở địa phận huyện Ba Tơ. Sông có 5 phụ lưu cấp 1 và 2 phụ lưu cấp 2; trong đó phụ lưu đáng kể nhất là sông Liên, sông Tô và sông Mễ. Sông Liên nhập dòng với sông Tô ở thị trấn Ba Tơ chảy theo hướng tây nam - đông bắc. Sông Tô từ đồng Bia, xã Ba Tô chảy về hợp với dòng chính cách thị trấn Ba Tơ 18km về phía hạ lưu. Sông Mễ chảy từ núi Mum về hợp với sông chính ở làng Teng, xã Ba Thành. Từ đây sông Vệ đổ xuống địa phận xã Hành Thiện (Nghĩa Hành), ra khỏi các vách núi, hẻm sâu, thung lũng để về xuôi với độ dài gần 60km. Xuống đồng bằng sông chảy men theo vùng giáp ranh giữa hai huyện Mộ Đức, Tư Nghĩa, rồi về Cửa Lở, xã Đức Lợi và cửa Cổ Lũy, xã Nghĩa An (TP.Quảng Ngãi). Ở vùng hạ lưu sông Vệ có các chi lưu lớn là sông Thoa đưa nước về huyện Đức Phổ, sông Cây Bứa và sông Phú Thọ, sông Vực Hồng.
Dòng sông Vệ. Ảnh: Hồ Nghĩa Phương
Ở thượng nguồn, khi chảy qua các xã Ba Nam, Ba Lế, Ba Bích (Ba Tơ), con sông có nhiều đoạn uốn khúc, gập ghềnh, lòng sông nhỏ hẹp. Về đến đoạn cuối đất Ba Tơ, lòng sông rộng dần ra, dường như hóa thân thành một dòng sông khác để về với đồng bằng rộng thoáng, làng mạc đông vui và đồng bãi bốn mùa xanh ngát.
Cũng như các con sông trên dãi đất miền Trung nhỏ hẹp, sông Vệ có độ dốc cao, lòng sông không rộng, dòng chảy xiết. Mùa hè, sông trơ đáy, nổi rõ những gò đất giữa dòng. Mùa mưa, nước sông cuồn cuộn, dâng lên đục ngầu. Qua khảo sát, điều tra năm 2020, Trung tâm Quy hoạch và điều tra tài nguyên nước (Bộ TN&MT) đưa ra con số: Tổng lượng nước mặt toàn lưu vực sông Vệ hằng năm khoảng 2,62 tỷ mét khối; trong đó dòng chính của sông Vệ chiếm khoảng 73%, còn lại là sông Phú Thọ, Vực Hồng ở cuối nguồn. Vào mùa mưa, lượng nước từ thượng nguồn đổ về hạ lưu khoảng 90%, chỉ giữ lại khoảng 10%. Đây chính là nguyên nhân lý giải vì sao vào mùa mưa nước sông Vệ từ nguồn đổ về ào ạt, tạo thành những cơn lũ kinh hoàng.
Lũ sông Vệ bắt đầu từ tháng 10 và kết thúc vào tháng 12 âm lịch hằng năm, trở thành nỗi ám ảnh đối với các làng xã ven sông. Các xã Hành Tín Đông, Hành Tín Tây, Hành Dũng, Hành Thiện (Nghĩa Hành) luôn chịu cảnh ngập lụt trong mùa lũ. Chỉ tính trong 3 năm (2019 - 2021), 3 xã Đức Hiệp, Đức Thắng, Đức Lợi (Mộ Đức) đã mất hơn 20ha đất canh tác do sạt lở và bị nước lũ cuốn trôi. Xóm A, thôn An Mô, xã Đức Lợi, nằm cuối sông Vệ trong 30 năm đã bị lũ nhấn chìm, cuốn trôi hơn 10ha đất, giờ thành ốc đảo, không có người sinh sống.
Từ kinh nghiệm chống chọi với thiên tai, người dân ở ven sông Vệ tích lũy được nhiều bài học về giữ đất giữ làng, chế ngự sự hung hãn của con nước bằng cách trồng tre, xây kè vững chãi.
Hoài niệm về một dòng sông
Sông Vệ gây lũ lụt cho vùng hạ du, nhưng bù lại hằng năm mang lượng lớn phù sa về bồi đắp cho vùng hạ lưu rộng đến hơn 1.200km, là nguồn sống của một bộ phận dân cư thuộc các huyện Nghĩa Hành, Minh Long, Tư Nghĩa và Mộ Đức. Thoát khỏi núi rừng Ba Tơ, sông Vệ đem lượng lớn phù sa về vùng trung du Nghĩa Hành, biến vùng đất khô khát này thành vựa trái cây, là một "tiểu Nam Bộ" của Quảng Ngãi. Bưởi da xanh, chôm chôm, sầu riêng, chuối ngự trồng ở các xã Hành Nhân, Hành Minh, Hành Đức, Hành Tín Đông, vùng đất ven sông Phước Giang đã trở thành sản phẩm OCOP 3 sao được nhiều nơi biết đến. Nghĩa Hành còn là xứ sở của cau, mít, chuối và nhiều nhà vườn chuyên nghề cây kiểng nổi tiếng.
Về vùng hạ lưu Tư Nghĩa, Mộ Đức, dòng nước mát và phù sa sông Vệ đã làm nên hương sắc những cánh đồng hoa. Hoa cúc giống Đà Lạt đem về trồng ở các xã Nghĩa Hiệp, Nghĩa Mỹ (Tư Nghĩa) và xã Đức Nhuận, Đức Hiệp (Mộ Đức), không chỉ cung cấp cho nhu cầu trong tỉnh mà còn đến với các TP.Quy Nhơn, Đà Nẵng và các tỉnh phía bắc. Hoa hồng, hoa vạn thọ vùng ven sông đã tạo nét lãng đãng, mơ màng cho con nước sông Vệ khi trời đất giao mùa, Tết đến Xuân về.
Cửu đỉnh (Huế). Ảnh: Võ Văn
Đôi bờ sông Vệ vùng hạ lưu không chỉ có những bãi cát mịn, tre dựng thành lũy, nước trong xanh rất tiện lợi cho nhiều gia đình làm giá đỗ, mà còn có con don, hến, cá bống, tôm sông và nhiều loài cá ngon. Về đến đoạn cuối, con nước sông Vệ chảy êm đềm giữa bờ bãi rau màu xanh tốt, xóm làng ôm ấp bởi những hàng cau, lũy tre già in bóng gợi lên cảnh thanh bình. Có một thời dọc theo sông Vệ là những bến đò, nơi họp chợ đông vui.
Những bến sông xưa giờ chỉ còn trong ký ức, nhắc nhớ về một thời đò giang xuôi ngược "Mít non gửi xuống, cá chuồn gửi lên". Đặc biệt, người dân làng cổ Thiên Xuân, ngôi làng hình thành từ thế kỷ thứ XV ở xã Hành Tín Đông vẫn còn ký ức về những chuyến đò trên sông Vệ chở mắm muối dưới xuôi lên đổi lấy củi núi Nứa và nông sản của làng...
Sông Vệ chưa phải là con sông lớn nhất của Quảng Ngãi nhưng lại có vinh dự được chọn khắc lên Dụ đỉnh, một trong Cửu đỉnh được trưng bày trước Thể Tổ miếu trong hoàng thành Huế. Cửu đỉnh gồm chín đỉnh bằng đồng là những tác phẩm nghệ thuật độc đáo được vua Minh Mạng cho khởi đúc từ năm 1835- 1837 mới hoàn thành. Những hình tượng về núi sông, linh vật, chim muông, lâm thổ sản quý, ngũ cốc, hương liệu được chọn khắc lên Cửu đỉnh là những thứ tiêu biểu nhất, giống như "căn cước" của các vùng miền trong cả nước.
Việc sông Vệ lên hình trên Dụ đỉnh được các nhà sử học đưa ra giả thuyết, là phải chăng nơi đầu nguồn sông Vệ đã từng xảy ra một trận chiến ác liệt thời Nguyễn Ánh tiến quân chiếm lại Phú Xuân? Sử cũ triều nhà Nguyễn và các chúa Nguyễn không thấy nhắc điều này và đến nay cũng không ai dám khẳng định nguyên do từ đâu. Thôi thì đó cũng là những suy đoán, sông Vệ vẫn một dòng trôi, từng ngày ôm vào lòng hình bóng quê hương yêu dấu và níu giữ biết bao kỷ niệm về một vùng quê.
Dòng sông có bờ xe nước đầu tiên ở Quảng Ngãi
Sông Vệ vừa trữ tình, thơ mộng nhưng cũng hoang dã, hung dữ như con ngựa bất kham. Nhờ dòng chảy mạnh, nước sông đầy mà từ giữa thế kỷ thứ XVIII có người phụ nữ tên là Trần Thị Ngôn rất giàu có, vợ ông Diệm ở thôn Bồ Đề, xã Đức Nhuận đã thuê thợ về dựng bờ xe nước trên sông Vệ, đưa nước tưới các cánh đồng ở Đức Nhuận, Đức Chánh và Đức Thắng (Mộ Đức). Nhiều năm sau, những guồng xe nước mới được dựng trên sông Trà Khúc. Theo các tài liệu cũ thì đến cuối năm 1939, dọc sông Vệ đã có đến 50 bờ xe nước tưới cho hầu khắp các cánh đồng ven sông. Đò xưa, cảnh cũ không còn nhưng ký ức về sông Vệ với bờ xe nước, thuyền bè xuôi ngược, những bờ bãi ven sông, làng quê yên bình vẫn còn tươi nguyên, đọng lại trong lòng người sông Vệ xa xứ.
Khám phá ba làng bè nổi tiếng nhất Việt Nam Bập bềnh trên sóng nước, các ngôi làng bè là nét văn hóa đặc sắc của vùng đất Nam Bộ. Đây là nơi du khách có cơ hội trải nghiệm không gian bình yên, thoát ly khỏi cuộc sống phố thị đầy căng thẳng. 1. Nằm ở địa phận thành phố Châu Đốc, tỉnh An Giang, làng bè Châu Đốc gồm hàng nghìn...