Mỹ – Trung chạy đua lôi kéo đồng minh
Việc một loạt đồng minh thân cận của Mỹ quyết định gia nhập định chế tài chính mới do Trung Quốc chủ trì, cho thấy mức độ kịch liệt trong cuộc cạnh tranh sức ảnh hưởng giữa Washington và Bắc Kinh.
Việc Anh tuyên bố gia nhập AIIB làm phân rã thế trận của Mỹ, bất chấp mối quan hệ mật thiết giữa hai nước. Trong ảnh là Thủ tướng Anh David Cameron (trái) và Tổng thống Mỹ Barack Obama. Ảnh: Reuters
Năm 2013, khi Trung Quốc đưa ra đề nghị thành lập Ngân hàng Đầu tư Cơ sở hạ tầng châu Á (AIIB), Mỹ nỗ lực thuyết phục các nước đồng minh không gia nhập, với lý do tiêu chuẩn cho vay của ngân hàng này không thể đạt được mức của Ngân hàng Thế giới (WB).
Tuy nhiên, giới quan sát nhận định rằng bản chất của hành động trên là bởi Mỹ không mong muốn AIIB trở thành đối thủ cạnh tranh của WB, từ đó thách thức địa vị chủ đạo của Washington trong trật tự kinh tế thế giới.
“Đây rõ ràng là một cuộc đấu tranh quyền lực, để xem ai là người có quyền viết lại quy tắc kinh tế thế giới”, bình luận viên Gideon Rachman thuộcFinancial Times nhận định.
Nhật Bản, Hàn Quốc và Australia cũng như các nước lớn trong Liên minh châu Âu (EU) ban đầu đều tuyên bố sẽ không gia nhập AIIB. Nhưng, ngày 12/3, Anh quyết định tham gia ngân hàng trên với tư cách thành viên sáng lập, bất chấp sự phản đối kịch liệt của Mỹ.
Động thái trên được cho là đã làm phân rã thế trận chống AIIB của Mỹ. Ngày 16/3, các nước Pháp, Đức và Italy đồng loạt ngỏ ý muốn gia nhập ngân hàng trên. Cục diện này khiến chính phủ hai nước Hàn Quốc và Australia đang xem xét lại về quyết định không gia nhập trước đó.
Trong một cuộc phỏng vấn với New York Times, ông Hahm Chaibong, viện trưởng Viện nghiên cứu chính sách Asan, cho biết quyết định của các nước châu Âu khiến những cá nhân và tổ chức ủng hộ AIIB, đặc biệt là Bộ Thương mại và Tài chính, có thêm phần lợi thế.
Các quan chức và giới học giả đều nhận định rằng, quyết định gia nhập AIIB của Anh và các nước châu Âu khác chủ yếu xuất phát từ lợi ích kinh tế. “Có lúc vì tăng trưởng kinh tế mà chúng ta phải làm những việc cần làm”, chuyên gia Robin Niblett thuộc Viện nghiên cứu Quốc tế Hoàng gia London bình luận. “Quan hệ Anh – Mỹ rất quan trọng, nhưng không phải lúc nào cũng phải đi cùng nhau”.
Tuy nhiên, sự kiện lần này vẫn được nhận định là thất bại ngoại giao nghiêm trọng của Mỹ, phản ánh sự dịch chuyển quyền lực và sức ảnh hưởng giữa hai nền kinh tế lớn nhất thế giới.
Trong phiên điều trần hôm 16/2, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Jack Lew lên tiếng cảnh báo, mức độ tín nhiệm quốc tế và sức ảnh hưởng của Washington đang bị sụt giảm, trong bối cảnh Trung Quốc thành lập các định chế nhằm cạnh tranh với WB và Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF).
Video đang HOT
Khác với tính chất đối kháng và phân chia chiến tuyến rõ ràng trong thời kỳ Chiến tranh Lạnh, thách thức hiện nay mà Trung Quốc đặt ra với Mỹ là nước này có khả năng xây dựng quan hệ đối tác chiến lược với những quốc gia thân cận với Washington.
“Đây là vấn đề mới với Mỹ, bởi ngay cả khi nước này không tham gia và phản đối những định chế mới này thì cũng không đủ, đặc biệt là khi các nước phương Tây khác tích cực tham gia”, chuyên gia Ely Ratner thuộc Trung tâm An ninh Mỹ nhận định.
Lợi thế của Mỹ
Chủ tịch Trung Quốc Tập Cận Bình (phải) và người đồng cấp Mỹ Barack Obama trên cuộc họp báo chung tại Bắc Kinh hồi tháng 11/2014. Ảnh: US News
Trong cuộc cạnh tranh sức ảnh hưởng này, lợi thế của Mỹ là sức mạnh quân sự vượt trội và các hiệp ước an ninh với rất nhiều quốc gia, trong khi đó, ưu thế của Trung Quốc là thị trường rộng lớn và tiềm lực kinh tế không ngừng gia tăng.
Tuy nhiên, điều này lại đặt các nước châu Á và đồng minh của Mỹ vào thế lựa chọn khó khăn. Ví dụ như trường hợp Hàn Quốc, Seoul nay cần sự bảo vệ của Mỹ trước mối nguy cơ từ Triều Tiên, nhưng thị trường Trung Quốc lại chiếm 25% tổng lượng xuất khẩu của nước này.
Giới phân tích nhận định rằng, sức mạnh quân sự của Mỹ hay thực lực kinh tế của Trung Quốc chiếm ưu thế hơn, còn tùy thuộc vào cảm giác an toàn của các quốc gia thứ ba. Nếu như các nước cảm nhận thấy sự uy hiếp từ Bắc Kinh, đặc biệt trên vấn đề tranh chấp chủ quyền, thì sẽ nghiêng về phía Washington.
Trong hai năm 2013 và 2014, Trung Quốc với hàng loạt hành động khiêu khích trên Biển Đông và Hoa Đông, tạo điều kiện cho Mỹ tăng cường chính sách xoay trục về châu Á.
Tuy nhiên, đến cuối năm 2014, Bắc Kinh chuyển hướng chính sách ngoại giao, giảm bớt thái độ cứng rắn trên vấn đề chủ quyền, đồng thời tăng cường liên hệ kinh tế với các nước trong khu vực.
“Trung Quốc muốn thuyết phục các nước châu Á tin rằng sẽ không phải đối diện với nguy hiểm trước sự trỗi dậy của nước này, mà ngược lại còn được lợi”, bình luận viên Rachman cho biết. “Đa số các nước láng giềng của Trung Quốc và Anh đều muốn thu hút đầu tư và không để lỡ cơ hội này”.
Mặc dù vậy, một số chuyên gia cho rằng việc đồng minh của Mỹ gia nhập AIIB không hoàn toàn bất lợi cho Washington, bởi các nước này sẽ góp phần cân bằng quyền lực khiến Bắc Kinh không thể dễ dàng lợi dụng định chế này như một công cụ ngoại giao kinh tế.
Hiện nay, tại Trung Quốc, một số nhóm lợi ích đang gây sức ép yêu cầu các khoản cho vay của AIIB dùng cho thúc đẩy nhu cầu xuất khẩu hàng hóa và dịch vụ của nước này. Còn giới chuyên gia chiến lược thì cho rằng AIIB nên góp phần tối đa hóa lợi ích của Trung Quốc, bằng cách trừng phạt những quốc gia không hữu hảo với Bắc Kinh.
Mặt khác, tầm quan trọng của AIIB được cho là khó có thể sánh ngang với Hiệp định Đối tác Kinh tế Chiến lược xuyên Thái Bình Dương (TPP) mà Mỹ đang chủ đạo đàm phán.
Chiến lược tổng thể của Mỹ là thông qua TPP và một hiệp định thương mại độc lập với EU, nhằm xây dựng lên hệ thống quy tắc thương mại toàn cầu tiêu chuẩn cao mới.
Hệ tiêu chuẩn này đặc biệt chú trọng đến vấn đề bảo vệ bản quyền trí tuệ, hỗ trợ nhà nước cho doanh nghiệp và bảo vệ môi trường. Đây đều là các vấn đề mà Mỹ và Trung Quốc tồn tại mâu thuẫn lợi ích và bất đồng trong cách giải quyết. Bắc kinh cũng không được mời tham gia hai hiệp định trên.
“Chính quyền Obama nên ngừng dạy bảo những đồng minh thân cận nhất, mà nên tranh thủ hoàn thành đàm phán TPP, bởi điều này mới thực sự là tương lai kinh tế của châu Á”, chuyên gia Daniel Blumenthal thuộc Viện nghiên cứu Doanh nghiệp Mỹ bình luận. “AIIB chỉ là công cụ để Trung Quốc tuần hoàn vốn, trong khi phát triển đang chững lại mà thôi”.
Đức Dương
Theo VNE
Chạy đua lập khối quân sự khu vực
Những thách thức an ninh mà nhiều khu vực trên thế giới đang đối mặt làm sống lại ý tưởng thành lập các lực lượng quân sự đa quốc gia.
Các binh sĩ Bahrain tham dự một cuộc tập trận của Lực lượng lá chắn bán đảo - Ảnh: Bahrain News
Đối với thế giới, năm 2014 vừa qua là một năm chứng kiến nhiều thách thức an ninh truyền thống lẫn phi truyền thống. Những lo ngại an ninh truyền thống đến từ cuộc khủng hoảng Ukraine cũng như căng thẳng ở các vùng biển Đông Á trong khi nguy cơ an ninh phi truyền thống trải rộng từ sự xuất hiện hoặc trỗi dậy mạnh mẽ của các nhóm vũ trang, mà nổi bật nhất là nhóm Nhà nước Hồi giáo (IS), cho đến nạn cướp biển hay bệnh dịch Ebola. Những bối cảnh an ninh mới hiện là chất xúc tác cho nhiều ý tưởng thành lập các lực lượng quân sự đa quốc gia được ấp ủ lâu nay.
Quân đội chung châu Âu
Lời kêu gọi thành lập quân đội chung cho các nước EU vừa được Chủ tịch Ủy ban châu Âu Jean-Claude Juncker đưa ra vào đầu tháng 3. Trả lời phỏng vấn tờ Welt am Sonntag của Đức, ông Juncker nhận định: "Một lực lượng quân sự chung sẽ là lời khẳng định với thế giới rằng sẽ không bao giờ xảy ra chiến tranh giữa các nước EU nữa. Một lực lượng như thế cũng sẽ giúp EU thể hiện rõ chiến lược an ninh, đối ngoại và đảm bảo được trách nhiệm với thế giới". Theo Chủ tịch Ủy ban châu Âu, với quân đội chung, EU có thể phản ứng một cách thích đáng trước mọi đe dọa nhằm vào các nước thành viên hoặc một quốc gia láng giềng. Ông Juncker xem đây là thông điệp "rõ ràng" với Nga: "Chúng tôi sẵn sàng bảo vệ giá trị chung của châu Âu".
Theo Đài phát thanh France Inter, tuy ý tưởng thành lập một liên minh quốc phòng từng được nhiều chính trị gia tại EU nhắc tới nhưng đây là lần đầu tiên được đề cập bởi người đứng đầu Ủy ban châu Âu - nơi chịu trách nhiệm đề xuất và thực hiện các chính sách chung của khu vực. Nguyên nhân là thời gian qua, tình hình nhiều khu vực ở "sát sườn" của EU không ngừng xảy ra biến động. Đáng kể nhất là khủng hoảng ở Ukraine dẫn tới căng thẳng ngoại giao với Nga và sự trỗi dậy của các tổ chức Hồi giáo cực đoan ở Bắc Phi, Trung Đông. Trong khi đó, đồng minh thân cận của EU là Mỹ lại "chuyển trục" về khu vực châu Á - Thái Bình Dương. Do vậy, EU cần đảm bảo khả năng phòng vệ một cách độc lập trong trường hợp không được sự hỗ trợ từ Washington hay NATO. Yếu tố quan trọng để đảm bảo khả năng này là các quốc gia thành viên phải có sự phối hợp đồng bộ vì an ninh của các nước trong khu vực ngày càng liên quan chặt chẽ với nhau. Mặt khác, nhật báo Le Temps dẫn lời chuyên gia Steven Blockmans (Trung tâm nghiên cứu chính trị châu Âu) nhận định khi trọng tâm về kinh tế và quân sự đang dần dịch chuyển về phía châu Á, nếu không có hành động cụ thể, EU sẽ dần đánh mất vị thế của mình.
Bên cạnh đó, ông Juncker còn nhấn mạnh khía cạnh kinh tế: "Lực lượng quân sự chung sẽ giúp EU hợp tác chặt chẽ hơn trong việc chế tạo và mua bán vũ khí, nhờ đó sẽ tiết kiệm được nhiều chi phí". Chủ tịch Ủy ban Đối ngoại của Quốc hội Đức Norbert Rttgen cũng cho biết quân đội nhiều nước châu Âu thường xuyên mua sắm trùng lặp các loại vũ khí "thường thường bậc trung". Nếu có sự điều phối của liên minh quốc phòng, các nước EU sẽ tránh được tình trạng này để tập trung đầu tư cho những thiết bị quân sự hiện đại và uy lực hơn.
Đề xuất của ông Juncker hiện chỉ là nhận định cá nhân, nhưng mới đây Hãng tin Sputnik dẫn lời Phát ngôn viên Ủy ban châu Âu Margaritis Schinas cho biết kế hoạch thành lập quân đội chung sẽ chính thức được đưa vào chương trình nghị sự tại hội nghị thượng đỉnh của EU vào tháng 6. Đây chắc chắn sẽ là một chủ đề gây nhiều tranh cãi vì quan điểm giữa các quốc gia thành viên về vấn đề này rất khác nhau. Cho đến nay, Đức là nước ủng hộ đề xuất của ông Juncker nhiệt tình nhất, trong khi Pháp vẫn tỏ ra thận trọng vì lo ngại việc EU lập quân đội chung có thể ảnh hưởng tiêu cực tới vai trò của NATO.
Sau khi bài phỏng vấn ông Juncker được đăng tải, ông Rttgen nhận định ý tưởng quân đội chung của EU "là tầm nhìn chiến lược của châu Âu" và đã đến thời điểm thực hiện. Trước đó, Hãng tin DPA dẫn lời Bộ trưởng Quốc phòng Đức Ursula von der Leyen tuyên bố: "Đời cháu của tôi chắc chắn sẽ biết đến một Hiệp chủng quốc châu Âu, với quân đội riêng". Tuy nhiên, đây cũng chính là điểm gây tranh cãi nhất: nhiều nước, đặc biệt là Anh, cho rằng việc thành lập lực lượng quân sự chung sẽ góp phần "liên bang hóa" EU, làm các nước thành viên bị mất đi sự độc lập. Trước nay, dù tham gia EU nhưng London luôn tỏ ra rất "cảnh giác" khi không dùng đồng euro và đứng ngoài một số hiệp ước khu vực. Do đó, nhiều khả năng Anh sẽ là nước phản đối mạnh mẽ nhất kế hoạch lập lực lượng quân sự EU.
Liên minh Ả Rập
Cuộc tranh luận về việc thành lập khối quân sự mới không chỉ xuất hiện ở châu Âu mà lan sang cả khu vực Trung Đông và Bắc Phi. Tổng thống Ai Cập Abdel Fattah al-Sisi mới đây đề xuất lập một liên minh quân sự thống nhất của thế giới Ả Rập để đối phó với mối đe dọa từ các nhóm vũ trang đang hoành hành tại khu vực.
Ý tưởng này nhận được sự tán đồng từ Tổng thư ký Liên đoàn Ả Rập (AL) Nabil al-Arabi, người khẳng định đó là một "nhu cầu cấp bách" tại hội nghị ngoại trưởng của AL ngày 9.3. Theo Phó tổng thư ký AL Ahmed Ben Helli, AL dự kiến sẽ bàn việc thành lập lực lượng chung tại hội nghị thượng đỉnh thường niên ở khu nghỉ mát Sharm el-Sheikh của Ai Cập ngày 28 - 29.3.
Theo tờ al-Ahram, hội nghị do ông al-Sisi chủ trì sẽ tập trung thảo luận việc "phục hoạt" Hiệp ước Phòng thủ và kinh tế Ả Rập của AL.
Theo hiệp ước ký năm 1950, 22 nước thành viên AL sẽ xem "bất kỳ cuộc tấn công nào nhằm vào một trong số họ là cuộc tấn công vào tất cả" và sẽ sử dụng "mọi biện pháp có thể, bao gồm sử dụng lực lượng vũ trang, để đẩy lùi cuộc xâm lược và tái lập an ninh và hòa bình". Tuy nhiên, lần duy nhất điều khoản này được viện đến là vào năm 1976, khi Lực lượng ngăn chặn Ả Rập được thành lập và triển khai đến Li Băng để gìn giữ hòa bình trong cuộc nội chiến tại đây. Do sự thiếu thống nhất về cấu trúc chỉ huy, thành phần đóng góp, lực lượng không thể đảm trách sứ mệnh và phải nhờ cậy đến cộng đồng quốc tế trong cuộc khủng hoảng này.
Tại khu vực cũng có một liên minh đa quốc gia khác là Lực lượng lá chắn bán đảo, thành lập năm 1982 trên cơ sở Hội đồng Hợp tác vùng Vịnh. Nhưng lực lượng này cũng không chứng tỏ được hiệu quả, điển hình là không thể bảo vệ được Kuwait trước cuộc xâm lăng của Iraq năm 1990.
Cũng như tâm lý của một số nước châu Âu, các nước Ả Rập ngày càng mất lòng tin vào sự bảo đảm an ninh của nước Mỹ xa xôi, đặc biệt trong bối cảnh Washington chủ trương thương thuyết để giải quyết vấn đề hạt nhân với Iran. Do vậy, nhu cầu thành lập liên minh quân sự khu vực là có thật. Tuy nhiên, bất đồng lớn nhất hiện nay là cơ cấu thành phần của khối. Truyền thông Ả Rập từng hé lộ các kế hoạch của giới lãnh đạo quân sự vùng Vịnh nhằm thành lập liên minh gồm Ai Cập, Ả Rập Xê Út, Kuwait và UAE. Các phiên bản khác còn bao gồm cả Morocco và Jordan. Khác với Ai Cập muốn lấy AL làm căn bản, Ả Rập Xê Út hiện chủ trương lập một liên minh quân sự phái Sunni và bao gồm cả Thổ Nhĩ Kỳ để đối phó với IS, Iran và những phe phái Shiite do Tehran bảo trợ.
Lan Chi - Sơn Duân
Theo Thanhnien
Thủ tướng Nhật 'chạy đua' với thời gian cứu hai con tin Thủ tướng Nhật Bản Shinzo Abe cho biết chính phủ đang tận dụng thời gian để giải cứu hai công dân nước này đang bị Nhà nước Hồi giáo tự xưng (IS) bắt giữ. "Đây là cuộc chạy đua gay go với thời gian, nhưng chính phủ Nhật sẽ làm hết sức. Tôi đề nghị chính phủ dùng tất cả các kênh và...