Mỹ công bố danh sách các sàn thương mại điện tử bị khiếu nại trong năm 2021
Ngày 17/2, Văn phòng Đại diện Thương mại Mỹ (USTR) đã công bố danh sách các trang thương mại điện tử có tiếng xấu trên toàn thế giới năm 2021, trong đó bổ sung 2 sàn thương mại điện tử AliExpress và WeChat của Trung Quốc.
Biểu tượng của WeChat trên màn hình điện thoại thông minh. Ảnh: AFP/TTXVN
Theo phóng viên TTXVN tại Washington, “danh sách đen” của USTR hiện có 42 sàn thương mại trực tuyến và 35 sàn thương mại trực tiếp trên thế giới bị khiếu nại bán hàng giả, gây tổn hại nghiêm trọng đến các doanh nghiệp Mỹ.
USTR cho biết, trong năm 2021, số lượng hàng giả và người bán hàng giả đã gia tăng đáng kể trên AliExpress, trang thương mại điện tử thuộc sở hữu của Alibaba. Ngoài AliExpress, Alibaba còn sở hữu Taobao, một trong những nền tảng thương mại điện tử lớn nhất Trung Quốc đã bị USTR đưa vào “danh sách đen” từ năm 2016. Trong khi đó, nền tảng WeChat – thuộc sở hữu của “gã khổng lồ” công nghệ Tencent với hơn 1,2 tỷ người dùng, bị đánh giá không có quy trình kiểm tra chặt chẽ đối với người bán và chỉ áp dụng hình phạt nhẹ đối với người bán hàng giả và hàng nhái.
Người đứng đầu USTR, bà Katherine Tai, nhận định hành vi buôn bán hàng giả và hàng nhái trên toàn cầu đã làm suy giảm hoạt động đổi mới, sáng tạo và gây hại cho người lao động Mỹ. Bên cạnh đó, hàng giả có thể tạo ra những nguy cơ lớn đối với sức khỏe và sự an toàn của người tiêu dùng.
Trong báo cáo mới công bố, USTR cũng ghi nhận nỗ lực của một số quốc gia như Brazil, Ấn Độ và Thái Lan trong việc ngăn chặn hành vi sản xuất và buôn bán hàng giả, hàng nhái kém chất lượng.
Hai lý do khiến Mỹ có thể mất vị trí trung tâm tài chính thế giới vào tay Trung Quốc
Các chuyên gia cho rằng vị thế trung tâm tài chính toàn cầu của Mỹ đang bị lung lay do lòng tham của các công ty và chính sách tự làm hại bản thân của chính phủ.
Người dân mua sắm tại một siêu thị ở Glendale, California, Mỹ ngày 12/1/2022. Ảnh: AFP/TTXVN
Video đang HOT
Theo đài RT, một thông tin ngày 12/2 của Reuters cho biết tỷ lệ đầu tư trái phiếu chính phủ Trung Quốc đã tăng trong tháng 1.
Thông tin này được đưa ra sau thông tin lạm phát tháng 1 ở Mỹ đang ở mức xấu, cho thấy các nhà đầu tư đang chuyển sang Trung Quốc để tự bảo vệ mình trước lạm phát và các đợt tăng lãi suất sau đó.
Đây chỉ là điều bất thường hay một phần của xu hướng ngày càng tăng khiến Trung Quốc có thể vượt Mỹ trở thành trung tâm tài chính toàn cầu?
Nhiều chuyên gia đã từng cảnh báo về xu hướng Mỹ có thể mất vị trí trung tâm tài chính toàn cầu vào tay Trung Quốc.
Ông Ray Dalio, sáng lập viên Bridgewater, từng nhận định với tờ Financial Times: "Trung Quốc đã có các thị trường vốn lớn thứ hai thế giới và tôi nghĩ cuối cùng họ sẽ cạnh tranh để có vị trí là trung tâm tài chính thế giới".
Ông Dalio đã đưa ra nhận định trên khi Trung Quốc hoạt động hiệu quả trong lĩnh vực này năm 2020. Ngoài ra, cần lưu ý rằng đại dịch COVID-19 là một thách thức nghiêm trọng đối với vị thế cường quốc trên thế giới của Mỹ. Các yếu tố khác, bao gồm cả những sai lầm cơ bản về chính sách của chính phủ, cũng đang cản trở vị thế thống trị tài chính của Mỹ.
Trước hết, phản ứng của chính phủ trong phòng chống COVID-19 đã tác động đến nền tài chính Mỹ. Kể từ cuộc khủng hoảng tài chính năm 2008, giá trị khoản vay nước ngoài của Mỹ đã giảm dần vì các bên nước ngoài mất niềm tin vào các nhà hoạch định kinh tế Mỹ. Nhưng năm 2020 đã chứng kiến tình trạng suy giảm thực sự.
Năm đó, khi Trung Quốc cố gắng kiềm chế đợt bùng phát COVID-19 đầu tiên, nước này lần đầu tiên dẫn đầu thế giới về vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI), mặc dù FDI toàn cầu đã giảm xuống. Vào năm 2021, trong khi Mỹ đã giành lại vị trí đầu bảng với con số hơn 300 tỷ USD, thì Trung Quốc cũng tăng trưởng ổn định và lập kỷ lục mới với 173,48 tỷ USD.
Nhưng ngay cả khi Mỹ chỉ coi năm 2020 là một sự cố thì xu hướng FDI tại Trung Quốc gia tăng là không thể phủ nhận. Một báo cáo tháng 1 của Citigroup, dựa trên ba cuộc khảo sát do Phòng Thương mại Mỹ ở Trung Quốc, Phòng Thương mại EU ở Trung Quốc và Tổ chức Ngoại thương Nhật Bản thực hiện, cho thấy Trung Quốc là điểm đến đầu tư ưa thích của nhiều tập đoàn. Trong số các lý do được đưa ra là khả năng phục hồi chuỗi cung ứng của Trung Quốc và việc kiểm soát hiệu quả COVID-19.
Một phần lớn cũng liên quan đến các chính sách kinh tế và tiền tệ mang tính nền tảng khác của Chính phủ Mỹ. Như đã nêu trước đây, giá trị mà nước ngoài cho Mỹ vay đã giảm dần kể từ năm 2008 do sự quản lý nền kinh tế kém. Điều quan trọng cần lưu ý là phản ứng của Ngân hàng Dự trữ Liên bang (FED) đối với lạm phát (tăng lãi suất và hạ nhiệt nền kinh tế) có thể sẽ không giúp ích được gì.
Người dân mua sắm tại một chợ ở Washington, DC, Mỹ, ngày 8/2/2022. Ảnh: AFP/TTXVN
FED cho rằng nếu tỷ giá tăng, mọi người sẽ tiêu ít tiền hơn và lạm phát sẽ giảm xuống. Cho tới nay, lạm phát đang tăng vọt do nhu cầu tiêu dùng bị dồn nén từ đại dịch mà không được đáp ứng. Do đó, FED muốn làm giảm lạm phát. Tuy nhiên, đồng thái này chưa tính tới một động lực chính gây ra lạm phát tại Mỹ: thiếu cạnh tranh.
Giá cả đang tăng lên là thực tế không tranh cãi, nhưng sẽ không hợp lý nếu cho rằng giá tăng chỉ do các nguyên nhân như chi phí sản xuất tăng, tiền lương cao hơn hoặc nguyên liệu thô đắt hơn.
Theo báo cáo, tiền thưởng cho các giám đốc tài chính đã tăng 36% vào năm 2021 và nhiều lĩnh vực chính có hàng hóa tăng giá lại đang báo cáo lợi nhuận kỷ lục.
Người ta không tin là có sự trùng hợp khi BP công bố lợi nhuận cao nhất trong 8 năm; Exxon, Chevron và Shell kinh doanh lãi nhất trong 7 năm trong khi giá khí đốt ở mức cao nhất trong 8 năm. Tất nhiên đó không phải là trùng hợp và các quan chức hàng đầu biết điều đó.
Theo các cố vấn kinh tế của Nhà Trắng, bốn trong số các công ty chế biến thịt lớn nhất đã sử dụng sức mạnh thị trường để đẩy giá thịt lên và trả ít tiền cho nông dân trong thời kỳ đại dịch để tăng lợi nhuận lên 300%. Vì vậy, họ biết rằng giá cao không liên quan nhiều đến chuyện lương tăng vọt (thực ra là giảm trong điều kiện thực tế). Thay vào đó, giá cả cao liên quan khá nhiều đến lòng tham của doanh nghiệp mà chính phủ Mỹ không có quyền điều tiết.
Điều này hoàn toàn trái ngược với Trung Quốc. Cục Quản lý Nhà nước về Quy chế Thị trường (SAMR) Trung Quốc đã phạt nặng các công ty lớn vì hành vi độc quyền vào năm 2021, bao gồm cả khoản phạt 2,8 tỷ USD đối với Alibaba. Trung Quốc cũng cập nhật Luật Chống độc quyền lần đầu tiên sau 13 năm vào năm 2021, và sẽ thành lập một Cục Chống độc quyền trong năm nay.
Ngoài việc chuỗi cung ứng của Trung Quốc đã đứng vững nhờ các biện pháp kiểm soát COVID-19, không phải ngẫu nhiên mà lạm phát chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của quốc gia này năm 2021 chỉ ở mức 0,9% nhờ thị trường cạnh tranh hơn.
Nhân viên làm tại dây chuyền sản xuất ô tô của công ty Great Wall Motors ngày 19/1 ở Trung Quốc. Ảnh: Getty Images
Tại Mỹ, các chính sách thương mại ngày càng bảo hộ vừa giúp củng cố độc quyền trong nước vừa khiến các nhà đầu tư nước ngoài sợ hãi. Mặc dù ra đời để hỗ trợ đất nước, nhưng các chính sách này sẽ chỉ làm tổn hại Mỹ về lâu dài.
Cựu Bộ trưởng Tài chính Hank Paulson đã nhận định trong một bài viết trên Tạp chí Phố Wall ngày 9/12/2020 rằng vai trò lãnh đạo tài chính của Mỹ đang ngày càng bị thách thức do chịu cạnh tranh gay gắt từ nước ngoài và do các chính sách thiển cận và phản tác dụng trong nước.
Bài báo xuất hiện một ngày trước khi Chỉ số S&P Dow Jones loại bỏ một số công ty Trung Quốc theo sắc lệnh của cựu Tổng thống Donald Trump. Đó là chính sách mà Tổng thống Joe Biden tiếp tục thực hiện và điều mà ông Paulson đặc biệt phản đối.
Mỹ đã loại bỏ các đối thủ cạnh tranh nước ngoài ra khỏi các chỉ số tài chính với cái cớ lo ngại an ninh quốc gia. Điều này đã làm suy yếu môi trường tài chính cởi mở mà Mỹ đã nỗ lực thiết lập hàng thập kỷ qua. Trái lại, Trung Quốc lại đang mở cửa thị trường tài chính vốn bị coi là chặt hơn cho các công ty Mỹ, châu Âu..., mang lại nhiều cơ hội tăng trưởng hơn, trái với những gì Mỹ đang làm.
Doanh nghiệp Mỹ coi dịch COVID-19 và thiếu hụt nhân lực là những rủi ro lớn nhất trong năm tới Theo kết quả khảo sát của Hiệp hội Kinh tế doanh nghiệp quốc gia (NABE) công bố ngày 24/1, các công ty Mỹ đã có một năm kinh doanh khả quan, song tất cả đều lo ngại về xu hướng số ca mắc COVID-19 tăng trở lại, dù vấn đề nguồn cung được dự báo sẽ hạ nhiệt. Công nhân làm việc tại...