Mỹ có vội vàng khi đưa Việt Nam vào danh sách giám sát tiền tệ?
Gần đây có dấu hiệu là Mỹ đã sử dụng luật này như công cụ đe dọa nước khác, nhằm gây áp lực các nước này tăng nhập khẩu hàng Mỹ và giảm xuất siêu với Mỹ.
“Thao túng tiền tệ” đã từ lâu là chính sách được ghi vào Luật Bao trùm thương mại và cạnh tranh ra đời năm 1988 (The Omnibus Trade and Competitiveness Act of 1988) của Mỹ, nhằm phản ứng lại chính sách phi thị trường của các nước, cố tình giảm giá đồng nội tệ so với đô la Mỹ để tạo cạnh tranh với hàng Mỹ.
Theo luật này, Bộ trưởng Bộ Tài chính Mỹ có trách nhiệm phân tích chính sách của các quốc gia khác và dựa vào điều khoản 3004, Bộ trưởng phải “quyết định xem phải chăng các nước này thao túng tỷ giá giữa tiền của họ và đô la Mỹ với mục đích tránh điều chỉnh cán cân thanh toán hoặc tạo lợi thế cạnh tranh không công bằng trong thương mại quốc tế”.
Từ năm 2016, Việt Nam theo đuổi chính sách “rùa bò” nhằm bảo đảm tỷ giá tiệm tiến với giá trị thật của đồng tiền. Ảnh: Thành Hoa
Tuy nhiên, gần đây có dấu hiệu là Mỹ đã sử dụng luật này như công cụ đe dọa nước khác, nhằm gây áp lực các nước này tăng nhập khẩu hàng Mỹ và giảm xuất siêu với Mỹ.
Ngày 28-5-2019, Bộ Tài chính Mỹ đưa chín nước vào danh sách các nước cần theo dõi đánh giá về việc thao túng tiền tệ, trong đó có Việt Nam, Trung Quốc, và cả các đồng minh thân cận của Mỹ như Đức, Ireland, Ý, Nhật Bản, Hàn Quốc, Malaysia, Singapore.
Trong thời gian tranh chấp thương mại cao điểm với Trung Quốc, vào ngày 5-8-2019, Mỹ quyết định coi Trung Quốc là nước thao túng tiền tệ.
Tuy nhiên, sau khi thương lượng giữa Mỹ và Trung Quốc đạt được một số thỏa thuận bước đầu mà Mỹ cho rằng có thể kiểm tra được, trong đó có việc Trung Quốc hứa hẹn tăng mua hàng Mỹ, ngày 13-1-2020 Mỹ đưa Trung Quốc ra khỏi danh sách này.
Video đang HOT
Diễn tiến trên cho thấy Tổng thống Mỹ Donald Trump đã sử dụng vũ khí gán nhãn “thao túng tiền tệ” để gây áp lực lên Trung Quốc.
Nhưng việc một nước có bị xem là thao túng tiền tệ hay không và quyết định gắn nhãn này dựa trên cơ sở gì?
Báo cáo của Bộ Tài chính Mỹ gửi cho Quốc hội vào tháng 5-2019 cho thấy, ba yếu tố sau được sử dụng trong đánh giá: (1) xuất siêu với Mỹ quá lớn; (2) thặng dư lớn trong cán cân thanh toán thường xuyên; (3) có can thiệp liên tục một chiều vào thị trường chuyển đổi ngoại tệ.
Dựa vào các tiêu chuẩn trên, Bộ Tài chính Mỹ đã xem xét các nước có xuất siêu hàng hóa trên 20 tỉ đô la với Mỹ, có thặng dư cán cân thanh toán trên 2% GDP trong bốn quí liền và mua thêm ngoại tệ trên 2% GDP trong vòng 12 tháng.
Như năm 2018, Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách theo dõi vì xuất siêu của Việt Nam với Mỹ trên 40 tỉ đô la, bằng 16% GDP của Việt Nam; thặng dư cán cân thanh toán là 5,7 tỉ, bằng 2,3% GDP; ngoại tệ mua thêm cho dự trữ là 5 tỉ đô la cũng bằng 2% GDP, đưa tổng số dự trữ lên 56 tỉ đô la. Như thế, việc Mỹ đưa Việt Nam vào danh sách xem xét thường xuyên cũng là đúng.
Tuy nhiên, việc một nước có xuất siêu với một nước và nhập siêu với nước khác cũng là bình thường vì lợi thế trong cạnh tranh. Vấn đề là nước xuất siêu có chủ trương can thiệp trực tiếp vào tỷ giá, nhằm giảm giá để tạo cạnh tranh bất chính không? Đây mới là vấn đề cần đánh giá và xem xét công bằng.
Điều này thì tôi chưa thấy xuất hiện ở Việt Nam, dù rằng Việt Nam đã tăng mạnh dự trữ ngoại tệ, đưa tổng dự trữ lên tới 56 tỉ đô la năm 2018, nhưng mức dự trữ này cũng chỉ tương đương với ba tháng nhập khẩu, một tiêu chuẩn tối thiểu mà Quỹ Tiền tệ quốc tế (IMF) khuyến nghị các nước.
Còn chính sách ngoại hối của Việt Nam như thế nào? Từ năm 2016, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (NHNN) theo đuổi chính sách “rùa bò” (crawling peg) nhằm bảo đảm tỷ giá tiệm tiến với giá trị thật của đồng tiền, qua đó NHNN quy định tỷ giá hàng ngày được lên xuống trong khoảng 3% so với tỷ giá trung tâm.
Như vậy là có tự do hơn nhưng vẫn bị kiềm chế bằng tỷ giá cơ bản, dù tỷ giá cơ bản có thể thay đổi khi cần.
Đối với một nước nhỏ, việc kiềm chế tỷ giá hay chu chuyển tài chính (capital flows) là cần thiết để chống lại các hành vi thao túng tiền tệ nhất thời của giới đầu cơ buôn tiền thế giới, điều này không mâu thuẫn với việc mà các nhà kinh tế đặt ra là phải tôn trọng thị trường và hành vi can thiệp của chính phủ nhằm làm giá trị đồng tiền rẻ đi để tạo lợi thế cạnh tranh là chuyện không thể chấp nhận được.
Tiếp theo, có phải Việt Nam cố tình tạo lợi thế cạnh tranh bằng cách giữ giá trị tiền đồng thấp?
Đánh giá này phải tính đến thay đổi về lạm phát giữa hai nước. Trên cơ sở lạm phát ở Việt Nam cao hơn ở Mỹ, tỷ giá đồng đô la Mỹ sau khi điều chỉnh sự khác biệt về lạm phát, tôi không thấy Việt Nam có chính sách thao túng tiền tệ trong 10 năm qua.
Tỷ giá trung bình năm của tiền đồng so với đô la Mỹ là 18.613 năm 2010 và 22.602 năm 2018.
Sự lên giá của đô la (hay xuống giá của tiền đồng) là phản ánh tình trạng lạm phát cao ở Việt Nam so với Mỹ mà thôi. Trong tám năm này, lạm phát tăng 60% ở Việt Nam còn ở Mỹ chỉ có 15%.
Chính vì thế nếu lấy năm 2010 làm gốc, chỉ số tỷ giá sau khi điều chỉnh cho lạm phát bám sát chỉ số tỷ giá trên thị trường (so sánh hàng 4 và hàng 5 của bảng 1).
Nhìn tổng thể thì cán cân thanh toán của Việt Nam trong 10 năm thay đổi thường xuyên từ âm hoặc rất nhỏ, lên trên dưới 5% GDP và từ năm 2015 thì nhỏ đi, năm 2018 chỉ bằng 2,3% GDP.
Theo vietnamdaily.net.vn
Điều gì khiến Mỹ loại Trung Quốc ra khỏi danh sách quốc gia thao túng tiền tệ?
Mỹ không còn chi trich Trung Quốc là nước thao túng tiền tệ. Bộ Tài chính Mỹ vừa khẳng định trong báo cáo trình Quốc hội rằng đồng NDT đã mạnh lên và Bắc Kinh không còn bị coi là thao túng tiền tệ.
Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin. Ảnh: AFP/TTXVN
Mỹ không còn chi trich Trung Quốc là nước thao túng tiền tệ. Bộ Tài chính Mỹ vừa khẳng định trong báo cáo trình Quốc hội rằng đồng nhân dân tệ (NDT) đã mạnh lên và Bắc Kinh không còn bị coi là một quốc gia thao túng tiền tệ.
Theo đó, Bộ trưởng Tài chính Mỹ Steven Mnuchin tuyên bô Trung Quốc đã đưa ra những cam kết có thể thực thi nhằm kiềm chế hành động giảm giá mang tính cạnh tranh và không sử dụng tỷ giá hối đoái của họ vì những mục đích cạnh tranh.
Vào tháng 8/2019, Mỹ lần đầu tiên kể từ năm 1994 đã chính thức liệt Trung Quốc vào danh sách những quốc gia thao túng tiền tệ và cáo buộc Bắc Kinh giảm giá đồng NDT khi cuộc chiến thương mại giữa hai bên leo thang.
Vào thời điểm đó, đồng NDT của Trung Quốc đã giảm hơn 6% trong một khoảng thời gian tương đối ngắn và phá ngưỡng 7 NDT đổi 1 USD. Điều này co liên quan đến một vòng leo thang mơi trong cuộc chiến thương mại, sau khi Washington liêt một số công ty Trung Quốc vào danh sách đen của Bộ Thương mại và tuyên bố se ap thuế bổ sung 10% đối với số hàng hóa trị giá 300 tỷ USD của Trung Quốc.
Đa có những nguyên nhân khác làm suy yếu đồng NDT. Năm 2019, nhiều thị trường mới nổi đã trải qua cuộc suy thoái. Kêt qua la, tiền tệ cũng suy giảm. Đồng lira của Thổ Nhĩ Kỳ, đồng rupee của Indonesia, đồng rand của Nam Phi đêu giảm giá. Tất cả những yếu tố này gây áp lực lên đồng nhân dân tệ. Ngay cả các tổ chức tài chính co uy tin cua phương Tây cũng không đồng ý với Washington khi đánh giá chính sách tiền tệ của Trung Quốc.
Vi du, Quỹ Tiền tệ Quốc tế (IMF) đa lưu ý rằng, theo cach đánh giá cua ho, trong chính sách tỷ giá hối đoái cua Trung Quốc không co yêu tô nao co thê được coi là thao tung tiên tê. Thặng dư ngân sách Trung Quốc chỉ chiếm 0,4% GDP trong năm 2018. Hơn nữa, theo tính toán của IMF, tỷ giá đồng nhân dân tệ trong năm 2018 thậm chí đã tăng 1,4% so với năm 2017.
Hồi tháng 8/2019, tơ Washington Post đã trích dẫn lời Marc Chandler, chiến lược gia thị trường tại Bannockburn Global Forex, cho rằng biến động tỷ giá là khá tự nhiên khi có các yếu tố gây bất ổn nghiêm trọng như vậy.
Điều gì đã khiến Mỹ thay đổi cach đanh gia? Vi xet theo cac tuyên bố của Chính quyền Trung Quốc, chính sách tiền tệ của đất nước vẫn ổn định, không có bất kỳ thay đổi đáng kể nào. Rõ ràng, trong khi chờ đơi lê ký kết thỏa thuận giai đoạn một vào ngày 15/1, Mỹ đã quyết định thưc hiên bươc nhượng bộ vơi Trung Quôc. Tuy nhiên, điều này cho thây rằng Mỹ dường như đã sử dụng cái "mác" thao túng tiền tệ và đây la một công cụ nhằm gây áp lực lên các quốc gia khác.
Chuyên gia Cui Lei, nhà nghiên cứu tại Phòng Nghiên cứu Mỹ thuôc Trung tâm Nghiên cứu Quốc tế (Trung Quốc), noi vơi Sputnik: "Rõ ràng Mỹ sử dụng "mac" thao túng tiền tệ như một công cụ gây áp lực với Trung Quốc. Vào tháng Tám năm ngoái, khi Trung Quốc và Mỹ áp thuế lên hàng hóa của nhau, đồng NDT đã giảm gia đáng kể. Mỹ đã nhanh chóng liêt Trung Quốc vao danh sach cac quôc gia thao túng tiền tệ.
Tất nhiên, vào thời điểm đó, khách quan mà nói thì Trung Quốc không thể bi coi la thao túng tiên tê, vì vậy đây chỉ là một công cụ chính trị của Mỹ. Bây giờ, khi Trung Quốc và Mỹ đang chuân bi ký kêt thỏa thuận giai đoạn một, Mỹ không còn cần công cụ này nữa và họ rât nhanh chóng bãi bỏ quyết định liệt Trung Quốc là nước thao túng tiền tệ.
Vì vậy, tôi cho rằng quyêt đinh này găn liên chặt chẽ vơi quá trình đàm phán thương mại. Xet theo cach Mỹ sử dụng "mac" thao túng tiền tệ và một số sự kiện có liên quan khác, có thể rut ra kết luận rằng động cơ thúc đẩy hành vi cua Mỹ không phai la những thay đổi thực sự trong chính sách tiền tệ của Trung Quốc, mà chỉ la tình hình trong cuộc đàm phán thương mại"./.
TTXVN
Tránh bị gắn mác thao túng tiền tệ Việt Nam cùng 9 đối tác thương mại lớn của Mỹ được kết luận là chưa đủ điều kiện bị gắn mác là nước thao túng tiền tệ tại thời điểm hiện tại, nhưng sẽ tiếp tục có tên trong danh sách giám sát các hoạt động điều hành tiền tệ, theo một báo cáo kết luận của Bộ Tài chính Mỹ ngày...