Mùa khát ở Na Cô Sa
“Lúc thì nhiều nước quá nhưng không có cái để đựng, đến mùa khát thì tìm từng mó nước để về sinh hoạt cũng chẳng đủ. Thầy cô giáo phải rất cố gắng mới đủ nước”
Đó là tâm sự của thầy giáo Phạm Văn Quân, Hiệu trưởng Trường phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học Na Cô Sa khi mùa thiếu nước nữa lại về.
Ở Na Cô Sa, sau tháng 11, các con suối bắt đầu cạn khô, các mó nước trong núi cũng chẳng còn nhiều nước như những ngày tháng 8 tháng 9.
Mùa thiếu nước, gần 1.000 em học sinh bán trú của 2 trường Phổ thông dân tộc bán trú Tiểu học và Phổ thông dân tộc bán trú Trung học cơ sở của xã Na Cô Sa lại đối mặt với tình trạng thiếu nước.
Với khối lượng học sinh bán trú ăn ở, sinh hoạt nội trú nhiều như vậy nên khối lượng nước sạch để đáp ứng nhu cầu sử dụng của các em là rất lớn.
Sau giờ học, học sinh ở Na Cô Sa phải đi tìm đến những khe nước ở tận trong những khe đá sâu trong núi. Ảnh: LC
Mặc dù hệ thống đường nước đã phòng Giáo dục và đào tạo huyện Nậm Pồ đầu tư song do nguồn nước được lấy từ khe suối quá xa, nước ở đầu nguồn cạn kiệt nên tình trạng thiếu nước diễn ra thường xuyên, liên tục.
Mùa cạn về, muốn có nước, các em phải lấy từ những nguồn trong khe núi cách trường 5km nhưng vẫn không đủ.
Trường Na Cô Sa nay đã xóa tranh tre, thành trường chuẩn cấp độ 1
“Nhiều khi phải huy động cả các thầy cô giáo dùng xe máy, tận dụng đủ mọi thứ có thể chứa được nước đưa về cho các em sinh hoạt. Mọi thứ phải thật tiết kiệm. Tận dụng, nguồn nước thừa cuối cùng sẽ được dùng để tưới hoa, tưới rau.
Các thầy cô giáo ở tại trường cũng phải sinh hoạt rất tiết kiệm, phần lớn nhường cho học sinh…”, thầy giáo Quân chia sẻ về cách dùng nước trong mùa khô ở Na Cô Sa.
ở Na Cô Sa, những ngày này, sau giờ học các em học sinh bán trú lại đi ra những khu vực suối cách trường 2km lấy nước tắm gội, giặt rũ áo quần.
Video đang HOT
Có thể nói, tình trạng thiếu nước sạch đã trở thành một thách thức với sự nghiệp trồng người nơi địa đầu Tổ quốc.
Dẫu biết rằng, đây là việc làm không dễ dàng nhưng để các thầy cô giáo, học sinh yên tâm bám trường, bám lớp rất cần sự chung tay góp sức của các cấp, các ngành, nhà hảo tâm trong việc xây dựng thêm những công trình nước sạch, đáp ứng sự mong mỏi của thầy cô và học sinh.
Một tin vui đã đến với thầy và trò 2 trường ở xã Na Cô Sa khi có một nhà hảo tâm đã tặng mỗi trường một giếng khoan.
Thế nhưng, nỗi lo về các thiết bị chứa nước lại là một bài toán khó với thầy và trò bởi bể nước quá nhỏ và chất lượng nước cần phải lọc thêm mới đảm bảo sinh hoạt.
ặc biệt, khi thiếu nước, nỗi lo lớn nhất với thầy cô giáo là sức khỏe của học sinh, bởi khi các em sử dụng nước bẩn có thể mắc các bệnh về da và lây lan rất nhanh.
Hình ảnh học sinh ở Na Cô Sa đi “tìm nước” trong mùa khô:
Có những lúc các em học sinh phải đi “săn” nước đêm bởi có nhiều khe đã cạn. Ảnh: LC
Những khe suối hiếm hoi còn nước thì chỉ đủ cho tắm, giặt. Ảnh: LC
Từng đoàn, từng đoàn đem theo xô, chậu, sau tắm giặt là một xô nước mang về trường. Ảnh: LC
Sau giờ học là những giờ đi tìm nước, con đường đi qua những nương lúa cạn. Ảnh: LC
Mùa khô, những con suối cạn cũng là đường đến trường. Ảnh: LC
Cô và trò khẩn trương giặt rũ chăn màn trước khi mùa khô đến. Bởi bể nước của trường sớm trơ đáy trong mùa khô. Ảnh: LC
Trần Phương
Theo giaoduc.net
ĐBSCL trước đe dọa thiếu nước: Giảm 54.500ha lúa để né hạn, mặn
Đó là thông tin từ ông Lê Thanh Tùng (ảnh) - Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt, Bộ NNPTNT khi trao đổi với PV Báo Nông thôn ngày nay trước nguy cơ xâm nhập mặn và thiếu nước sản xuất, sinh hoạt ở vùng ĐBSCL.
Ông Lê Thanh Tùng, Phó Cục trưởng Cục Trồng trọt.
Theo ông, nơi nào sẽ gặp áp lực lớn nhất về nguy cơ thiếu nước, xâm nhập mặn ở ĐBSCL?
- Áp lực nhất về nguồn nước là các tỉnh ven biển: Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng. Nguyên nhân là do lưu lượng nước sông Mekong giảm khiến nguy cơ xâm nhập mặn tăng; khi đó để tránh xâm nhập mặn các địa phương phải đóng cống thì lại bị hạn hán. Đây là một thiệt hại kép.
Vậy trong vụ tới, người dân khu vực Nam Bộ cần lưu ý gì, thưa ông?
- Theo thống kê, toàn vùng ĐBSCL có khoảng 150.000 lúa có thể bị ảnh hưởng bởi hạn hán, xâm nhập mặn. Để giúp các địa phương "né" được hạn mặn, Bộ NNPTNT có chủ trương khuyến cáo các địa phương xuống giống sớm. Cho đến thời điểm này, những cảnh báo hạn mặn theo bản đồ hạn mặn đã xây dựng, việc chuẩn bị vật tư nông nghiệp, máy móc để bà con xuống giống đã chuẩn bị sẵn sàng.
Trong sản xuất lúa vụ đông xuân, Cục Trồng trọt khuyến cáo vùng ĐBSCL xuống giống sớm, theo đó, từ ngày 10 - 30/10 những vùng có nguy cơ hạn cuối vụ gồm vùng ven biển các tỉnh: Long An, Bến Tre, Tiền Giang, Trà Vinh, Sóc Trăng, Bạc Liêu và Kiên Giang đã xuống giống lúa.
Đợt 1 xuống giống từ ngày 1 - 30/11 cho cả 3 vùng thượng, vùng giữa và vùng ven biển, khoảng 700.000ha. Xuống giống đợt 2 từ ngày 1 - 31/12 cho cả 3 vùng thượng, vùng giữa và vùng ven biển, với khoảng 400.000ha. Một số vùng xuống giống đông xuân muộn kết thúc xuống giống trước ngày 10/1/2020 những diện tích lúa còn lại.
Đối với vùng Đông Nam Bộ, Cục Trồng trọt khuyến cáo: Đợt 1: Đông xuân sớm, xuống giống tháng 10 đến đầu tháng 11 với diện tích gieo sạ ước khoảng 10.000ha gồm: Tây Ninh, Bình Phước; Đợt 2: Đông xuân chính vụ, xuống giống đầu tháng 11 đến tháng 12 với diện tích gieo sạ ước 35.000ha, gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Đồng Nai; Đợt 3: Đông xuân muộn, xuống giống cuối tháng 12 đến đầu tháng 1 năm sau. Diện tích gieo sạ ước 25.000ha gồm các tỉnh Tây Ninh, Bình Phước, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu.
Các địa phương bố trí thời vụ cần bám sát theo việc vận hành các hệ thống công trình thủy lợi, đồng thời căn cứ theo bản đồ nguy cơ cho lúa vào những năm cực đoan đã được xây dựng trước đây để làm cơ sở cho bố trí mùa vụ sản xuất.
Việc chủ động xuống giống sớm như khuyến cáo sẽ giúp nông dân có nhiều cơ hội tận dụng nguồn nước cho sản xuất lúa và không bị hạn cuối vụ đối với các tỉnh ven biển. Đồng thời, đề phòng khô hạn cục bộ tại một số địa bàn của vùng phù sa ngọt.
Bên cạnh đó, cần sử dụng giống lúa xác nhận, ngắn ngày có năng suất, chất lượng khá, chống chịu sâu bệnh tốt, đáp ứng yêu cầu xuất khẩu theo cơ cấu giống chung trong toàn vùng và tính phù hợp của từng địa phương. Trong đó, cơ cấu giống lúa nếp không được tăng để tránh rủi ro về thị trường tiêu thụ khi cung vượt cầu. Chú ý việc sử dụng các giống lúa chống chịu được mặn, hạn, phèn ở những vùng có nguy cơ xâm nhập mặn và hạn.
Thứ trưởng Bộ NNPTNT Lê Quốc Doanh thăm mô hình trồng thanh long ở xã Kiểng Phước (Gò Công Đông, Tiền Giang). Đây là mô hình chuyển đổi từ đất lúa để đối phó với xâm nhập mặn. (ảnh: K.B)
Đối với những vùng có nguy cơ hạn mặn cao, Bộ NNPTNT, các địa phương có chủ trương, kế hoạch chuyển đổi cơ cấu cây trồng như thế nào?
- Theo kế hoạch vụ đông xuân 2019 - 2020 Nam Bộ sẽ xuống giống khoảng 1,55 triệu ha lúa, Cục Trồng trọt đề nghị giảm khoảng 54.500ha để tránh bị hạn mặn ảnh hưởng. Tuy nhiên, nhiều địa phương được dự báo có hạn mặn ảnh hưởng vẫn đề xuất không giảm diện tích gieo sạ.
Nhiều diện tích không xuống giống sớm thì chuyển đổi sang các cây trồng ngắn ngày, trong trường hợp không thể xuống giống và cũng không thể chuyển đổi thì tốt nhất cắt bỏ một vụ, dự kiến ở tỉnh Bến Tre có khoảng 14.000ha bỏ đất không trong vụ này để tránh bị thiệt hại.
Theo tôi, các địa phương chỉ nên bố trí sản xuất lúa đông xuân 2019 - 2020 ở những vùng còn đủ 3 tháng cung cấp nước ngọt, tối thiểu phải đủ 2,5 tháng nước ngọt cho đến lúc lúa ngậm sữa. Phải có đủ nước ngọt cung cấp cho lúa vào gia đoạn cuối.
Xin cảm ơn ông!
Theo Danviet
Mang áo ấm đến với các em nhỏ vùng cao Hà Giang Từ ngày 20 đến 23-11, Đoàn Thanh niên Trung tâm bảo tồn di sản Thăng Long Hà Nội, CLB thiện nguyện Gia đình nhà Cám đã đến thăm, tặng quà, hỗ trợ học sinh Trường Mầm non - Tiểu học tại xã Sủng Trái, huyện Đồng Văn, tỉnh Hà Giang với tên gọi "Mùa đông 2019 không lạnh". Trường Mầm non - Tiểu...