Một số yếu tố ảnh hưởng đến dị ứng thuốc
Dị ứng thuốc là một trong những tác dụng không mong muốn do dùng thuốc rất nguy hiểm. Vậy làm thế nào để tránh được dị ứng thuốc? Một trong những cách phòng tránh là luôn quan tâm đến các yếu tố nguy cơ gây dị ứng thuốc, bao gồm: yếu tố do thuốc và yếu tố do người bệnh.
Các yếu tố do thuốc
Bản chất của thuốc
Hầu hết các loại thuốc khi vào cơ thể có thể kết hợp với huyết thanh hoặc protein ở mô và trở thành các dị nguyên hoàn chỉnh. Các dị nguyên này kích thích cơ thể tạo ra kháng thể và gây nên tình trạng dị ứng với thuốc. Nhiều trường hợp các sản phẩm chuyển hóa của thuốc cũng như các chất vi ô nhiễm có tính phản ứng đóng vai trò gây quá mẫn trên lâm sàng. Vì vậy đã có rất nhiều thuốc được cho là nguyên nhân của phản ứng dị ứng.
Mức độ tiếp xúc và nghề nghiệp
Quá trình dùng thuốc gián đoạn với một liều cơ bản rõ ràng sẽ làm tăng nguy cơ gây quá mẫn, điều trị kéo dài không ngắt quãng ít có khả năng gây quá mẫn như vậy. Trong một đợt điều trị, khả năng gặp phản ứng dị ứng trong 2-3 tuần đầu cao hơn. Các nghiên cứu cho thấy, công nhân dược phẩm tuổi nghề càng cao thì mức độ dị ứng càng lớn, vị trí của của người lao động trực tiếp sản xuất thuốc bị dị ứng nhiều hơn so với người bình thường. Công nhân ngành dược có thời gian tiếp xúc trực tiếp với thuốc kháng sinh trên 10 năm có nguy cơ dị ứng cao gấp 2,67 lần so với nhóm công nhân sản xuất thuốc dưới 10 năm. Điều này cũng khẳng định, những người làm nghề y, dược thường xuyên tiếp xúc với thuốc cũng dễ bị dị ứng với thuốc.
Giai đoạn mẫn cảm
Dị ứng thuốc cũng như dị ứng nói chung không xảy ra ngay sau lần tiếp xúc đầu tiên với dị nguyên. Một người mẫn cảm với một dị nguyên nào đó phải sau nhiều lần tiếp xúc trong thời gian khá dài khoảng vài tuần, vài tháng, thậm chí nhiều năm, thông thường khoảng từ 7-21 ngày. Trên thực tế, các triệu chứng dị ứng chỉ xảy ra sau hàng chục, hàng trăm, thậm chí hàng nghìn lần tiếp xúc với loại dị nguyên ấy. Thời gian đó gọi là gian đoạn mẫn cảm – thời gian từ khi dị nguyên vào cơ thể đến lúc sinh ra kháng thể dị ứng và khởi phát các triệu chứng dị ứng. Nhưng khi đã bị dị ứng rồi thì hầu hết các trường hợp triệu chứng dị ứng sẽ xảy ra rất nhanh mỗi khi bệnh nhân tiếp xúc lại với dị nguyên đó, dù chỉ là một lượng rất nhỏ.
Hiện tượng mẫn cảm chéo là một vấn đề quan trọng của dị ứng thuốc. Hiện tượng này có nghĩa là khi bệnh nhân bị dị ứng với một loại thuốc nào đó thì họ có thể tự động dị ứng với các thuốc khác có thành phần hóa học hoặc các sản phẩm chuyển hóa gần tương đương liên quan đến loại thuốc này.
Video đang HOT
Hội chứng đa dị ứng thuốc: một bệnh nhân khi bị hội chứng đa dị ứng thuốc, nghĩa là người đó có thể tăng nguy cơ dị ứng với một thuốc hoàn toàn khác cho dù đây không phải là mẫn cảm chéo, tuy nhiên, sự tồn tại của hội chứng này hiện vẫn còn đang tranh cãi.
Phản ứng dị ứng do thuốc ít gặp ở trẻ em và các bệnh nhân cao tuổi, có lẽ do sự chưa trưởng thành hoặc suy giảm chức năng của hệ thống miễn dịch. (Ảnh minh họa).
Các yếu tố do bản thân bệnh nhân
Tuổi và giới
Phản ứng dị ứng do thuốc ít gặp ở trẻ em và các bệnh nhân cao tuổi, có lẽ do sự chưa trưởng thành hoặc suy giảm chức năng của hệ thống miễn dịch. Tuổi trưởng thành, hệ thống miễn dịch đã phát triển hoàn chỉnh, lại có quá trình tích lũy mẫn cảm do nhiều lần dùng thuốc, mắc các bệnh viêm và nhiễm khuẩn nhiều lần, nên đã tạo điều kiện cho cơ thể dễ mẫn cảm với thuốc. Không có bằng chứng cho rằng dị ứng thuốc gặp nhiều ở nữ hơn nam.
Các yếu tố di truyền
Các phản ứng dị ứng chỉ xảy ra với một tỷ lệ nhỏ trên các bệnh nhân được điều trị bằng một loại thuốc nhất định. Di truyền và môi trường đều có tác động trong việc quyết định các cá thể nào trong một quần thể bất kỳ sẽ tiến triển phản ứng dị ứng với thuốc cho trước.
Các tình trạng bệnh lý có thể ảnh hưởng đến sự tiến triển của các phản ứng dị ứng thuốc do làm thay đổi quá trình chuyển hóa và gây cảm ứng các đáp ứng miễn dịch với thuốc. Các phản ứng với thuốc ít gặp hơn trên các bệnh nhân suy giảm miễn dịch. Quan điểm cho rằng, quá mẫn với thuốc hay gặp trên các bệnh nhân bị lupus ban đỏ hệ thống hiện vẫn chưa được xác nhận. Một số bệnh nhiễm khuẩn làm tăng nguy cơ quá mẫn với thuốc như trường hợp ban dạng rát sẩn gây ra do ampicillin phát sinh chủ yếu trên các bệnh nhân bị tăng bạch cầu mono nhiễm khuẩn. Đã có bằng chứng thuyết phục cho thấy đáp ứng này không qua trung gian miễn dịch. Các phản ứng có hại do thuốc cũng gặp thường xuyên hơn trên các bệnh nhân có HIV/AIDS, đặc biệt trên các bệnh nhân sử dụng co-trimoxazol.
Tiền sử dị ứng thuốc được nhiều tác giả nhấn mạnh vai trò quan trọng của nó trong các bệnh dị ứng nói chung và dị ứng thuốc. Tuy nhiên, cho đến nay người ta chưa xác định được gen nào trên nhiễm sắc thể có thể gây ra tình trạng dị ứng thuốc. Đã có một số cho rằng các bệnh nhân có tiền sử quá mẫn với thuốc có thể làm tăng nguy cơ dị ứng với các thuốc khác. Như vậy, dù có liên quan nhiều hay ít với thuốc đã gây quá mẫn trong tiền sử thì cũng được cảnh báo về hiện tượng phản ứng chéo trước khi sử dụng thuốc.
Đường dùng thuốc
Thuốc dùng tại chỗ thường làm tăng nguy cơ gây quá mẫn và cần tránh sử dụng với một số thuốc nhất định, đặc biệt trên da bị viêm. Đường uống thường an toàn hơn tất cả các đường tiêm. Đường tĩnh mạch là đường dùng thuốc ít gây quá mẫn nhất, nhưng nếu sốc phản vệ gặp ở đường này thì cực kỳ nguy hiểm.
Theo PNO
Tổn thương da do tác dụng phụ của thuốc
Tất cả các loại thuốc chữa bệnh đều có thể gây những tác dụng phụ làm tổn hại một hoặc nhiều cơ quan của cơ thể. Có thể gặp ở người này hoặc người khác với nhiều mức độ khác nhau. Tổn thương da là biểu hiện của dị ứng thuốc mà người bệnh dễ dàng nhận biết.
Ban đỏ (Exanthems): là dạng ban sẩn hoặc ban dạng sởi, nhỏ như đầu đinh ghim ở thân mình và có thể liên kết lại với nhau tạo thành mảng, người bệnh thường ngứa, thời gian xuất hiện sau dùng thuốc thường khoảng một tuần và tồn tại đến một vài tuần. Những thuốc hay gây dị ứng dạng này là: ampicillin, amoxycillin, cotrimoxazole, carbamazepine, cefaclor, những thuốc bôi ngoài da, những thuốc có khả năng khuếch tán trong môi trường (các mỡ kháng sinh, chống viêm, bảo vệ da, tiếp xúc trực tiếp với thuốc trong công nghệ sản xuất thuốc, khí dung kháng sinh...).
Viêm da bong vảy là dạng ít gặp với biểu hiện đỏ da bong vảy và ngứa toàn thân. Bệnh có thể tiến triển nặng nề và có thể đe dọa đến tính mạng người bệnh. Dạng này thường xuất hiện sau dùng thuốc khoảng 1 tuần và tồn tại trong 3 - 4 tuần. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: allopurinol, thuốc chống sốt rét, giam đau, ha nhiêt, carbamazepine, penicillin, streptomycin, chloramphenicol, tetracyclin và sulfonamide.
Mày đay thường là biểu hiện lâm sàng nhẹ và ban đầu của phần lớn các trường hợp dị ứng thuốc. Các loại thuốc đều có thể gây mày đay, hay gặp hơn là kháng sinh, vaccin, huyết thanh, thuốc chống viêm giảm đau, hạ sốt... Sau khi dùng thuốc (nhanh từ 5-10 phút, chậm có thể vài ngày), người bệnh cảm thấy nóng bừng, ngứa, trên da nổi ban cùng sẩn phù, có thể kết hợp với phù mạch, phù nề mi mắt, môi. Trường hợp nặng có thể có khó thở, đau bụng, đau khớp, chóng mặt, buồn nôn, đau đầu, mệt mỏi, sốt cao...
Tổn thương da do thuốc.
Mày đay cấp thường biểu hiện tăng sẩn phù, mất đi nhanh và xuất hiện lại cũng nhanh, diễn biến trong thời gian dưới 3 tuần. Mày đay diễn biến hằng ngày, kéo dài hơn 3 tuần là đã chuyển thành mạn tính.
Những thuốc hay gây dị ứng dạng này là: kháng sinh, đặc biệt là penicillin, thuốc khác: captopril và các thuốc ức chế men chuyển khác, thuốc chống viêm giảm đau không steroid (NSAIDs) bao gồm cả aspirin và các thuốc quinine.
Phù Quincke là tình trạng phù cục bộ, có thể do kháng sinh, vaccin, huyết thanh, các thuốc chống viêm không steroid... Phù thường xuất hiện nhanh sau khi dùng thuốc ở những vùng da mỏng, môi, cổ, quanh mắt, bụng, các chi, bộ phận sinh dục... Kích thước phù Quincke thường to, có khi bằng bàn tay, nếu ở gần mắt làm cho mắt híp lại, ở môi làm môi sưng to, biến dạng. Màu da vùng phù bình thường hoặc hơi hồng nhạt, đôi khi phối hợp với mày đay. Trường hợp phù Quincke ở họng, thanh quản, người bệnh có thể bị nghẹt thở; ở ruột, dạ dày gây đau bụng; ở não gây đau đầu...
Da nhạy cảm ánh sáng: Bình thường da không nhạy cảm với ánh sáng. Khi dùng một số loại thuốc thường là các loại như: ưc chê men chuyên, NSAIDs, quinolone, nalidixic acid, phenothiazine, tetracycline, griseofulvin, amiodarone, sulfonamide va thiazide thì da trở nên tăng nhạy cảm với ánh sáng và bị tổn thương như: đỏ da giống bi phong, sạm da, đen da hoặc mất sắc tố da... Vị trí ở các vùng da hở như: mặt, cổ, mu bàn tay, mu bàn chân. Mức độ tổn thương phụ thuộc vào liều thuốc sử dụng và thời gian tiếp xúc với ánh nắng.
Hồng ban đa dạng: Bệnh bắt đầu sau một vài ngày dùng thuốc với những biểu hiện: sốt nhẹ, mệt mỏi, đau khớp, sưng hạch, có cảm giác nóng bỏng toàn thân. Tổn thương là các hông ban hình bia bắn điển hình có ba vòng tròn đồng tâm: ngoài cùng là vòng ban đỏ, tiếp trong là sẩn đỏ phù nề, ở giữa là mụn nước nhỏ hoặc vỡ, trợt, hoại tử. Bênh có thể kèm theo tổn thương niêm mạc các hốc tự nhiên, tổn thương nội tạng (tim, gan, thận...), tái phát nhiều đợt; trường hợp nặng có thể gây tử vong.
Nguyên nhân do thuốc gây hồng ban đa dạng chỉ chiếm khoảng 10%, các thuốc thường gây hồng ban đa dạng là: ưc chê men chuyên, allopurinol, carbamazepine, phenytoin, NSAIDs, penicillins, sulfonamide và tetracyclin.
Viêm mao mạch là tình trạng viêm hoai tư các mao mạch ngoài da do các thuốc như: ức chế men chuyển, NSAIDs, allopurinol, penicillins, sulfonamides và thiazides lợi tiểu. Biểu hiện ngoài da là các ban xuất huyết sờ thấy được trên mặt da. Ngoài ra, thuốc còn có thể gây viêm mạch nội tạng và gây nguy hiểm hơn cho người bệnh.
Ban dạng lichen: Gọi tên này bởi vì tổn thương ngoài da giống lichen phẳng: là các sẩn màu hơi tím, phẳng, trên đó có các rãnh, khía... tổn thương có thể liên kết thành mảng lớn. Các thuốc hay gây dị ứng dạng này là: thuốc chẹn beta, thuốc ức chế men chuyển, thuốc chống sốt rét, furosemide, thiazides, chlorpropamide, methyldopa, phenothiazine và quinidine.
Hồng ban cố định nhiễm sắc là dạng dị ứng thuốc biểu hiện ở vị trí cố định trên da, thường là các vị trí liên kết da - niêm mạc. Tổn thương là các dát sẫm màu ranh giới rất rõ với da lành, số lượng thường chỉ 1 hoặc vài tổn thương. Xuất hiện lại tại đúng vị trí lần trước, sau khi uống thuốc khoảng 30 phút đến 8 giờ kèm theo cảm giác nóng rát hoặc châm chích tại vị trí tổn thương. Các thuốc thường gây dị ứng loại này là: tetracycline, sulfonamide, NSAIDs, paracetamol, phenolphthalein và barbiturat.
Theo Sức khỏe đời sống
Lý do kỳ thú khiến trẻ nhỏ thích mút tay Trẻ từ hai tháng tuổi trở lên bắt đầu có sở thích cắn mút ngón tay, thậm chí ngón chân của mình. Vì sao lại có hiện tượng thú vị như vậy? Freudian, chuyên gia tâm lý nổi tiếng người Mỹ đã dụng công nghiên cứu đặc điểm của trẻ nhỏ dưới một tuổi và tìm ra bốn nguyên nhân giải mã hiện...