Môn Ngữ văn: “Công phá” để giành trọn điểm phần đọc hiểu
Giáo viên Ngữ văn giàu kinh nghiệm chia sẻ lưu ý giúp thí sinh có thể giành trọn 3 điểm phần đọc hiểu trong đề thi môn Ngữ văn, Kỳ thi tốt nghiệp THPT năm nay.
Giờ học Ngữ văn ở Trường THPT Mạc Đĩnh Chi (Bến Tre). Ảnh: ITN
Nội dung kiến thức quan trọng cần nhớ
Chốt lại một số kiến thức quan trọng học sinh cần nắm vững để có thể làm tốt phần đọc hiểu, cô Nguyễn Thị Lan Hương, Tổ trưởng tổ Văn Trường THPT Cao Bá Quát (Gia Lâm, Hà Nội), nhấn mạnh đến kiến thức về thể thơ (luật hay tự do); các biện pháp nghệ thuật thường gặp và hiệu quả của nó như: So sánh, ẩn dụ, hoán dụ, điệp, câu hỏi tu từ…; phong cách ngôn ngữ và đặc trưng (dấu hiệu nhận biết), như: Sinh hoạt, nghệ thuật, chính luận, báo chí…; phương thức biểu đạt quen thuộc: Tự sự, miêu tả, biểu cảm, nghị luận, thuyết minh…; thao tác lập luận cơ bản: Giải thích, chứng minh, phân tích, so sánh, bác bỏ, bình luận… “Khi làm bài, học sinh phải bám sát, đọc kĩ văn bản ở đề bài để trả lời câu hỏi theo các cấp độ: Nhận biết, tái hiện, cảm thụ thấp, cảm thụ cao” – cô Hương lưu ý.
Cũng là Tổ trưởng Ngữ văn, với phần đọc hiểu, cô Nguyễn Thị Mỹ Dung, Trường THPT Nguyễn Văn Hai (Trà Vinh) khuyên thí sinh trả lời các câu hỏi theo thứ tự: Đọc kỹ ngữ liệu đề cho để giúp trả lời tốt câu hỏi 1 đến 4. “Các câu hỏi này chỉ cần trả lời đúng, đủ nội dung, vì vậy đọc kỹ câu hỏi vô cùng quan trọng tránh trả lời thiếu ý hoặc sai ý câu hỏi” – cô Dung nhấn mạnh.
Bên cạnh đó, câu hỏi xoay quanh ngữ liệu đã cho, nên HS phải nắm được văn bản nói gì để trả lời. Phần này dễ đối với HS khá. Do đó, theo cô Dung, trong quá trình ôn tập, GV nên đưa ra các đoạn thơ, hay vần để HS tập và quen với việc xác định thể loại văn bản. Sau đó, GV đưa các văn bản có tính thời sự để các em tập xác định phương thức biểu đạt hay phong cách ngôn ngữ. Khi HS đã xác định được thể loại, GV cho đề bài yêu cầu tìm các biện pháp tu từ trong đoạn văn, hay đoạn thơ đã cho.
“Khi đã xác định đúng các biện pháp tu từ, GV đưa yêu cầu cao hơn là nêu tác dụng của biện pháp nghệ thuật được sử dụng. Phần này thường rơi vào câu hỏi 2 và 3 trong phần đọc hiểu. Sau đó, cho các em tìm thông điệp được người viết gửi gắm; hoặc rút ra bài học từ đoạn văn của đề bài. Sau khi làm xong phần đọc hiểu, HS nên đọc lại xem đã chính xác chưa. Thao tác này rất quan trọng, vì giúp các em có thể sửa sai kịp thời. Nhưng thí sinh cũng đừng mất quá nhiều thời gian để làm việc này, vì tiếp theo phải hoàn thành phần quan trọng với 7 điểm trong đề thi” – cô Mỹ Dung lưu ý.
Video đang HOT
Các bước làm tốt câu hỏi đọc hiểu
Sinh viên ĐH Thủ Dầu Một (Bình Dương). Ảnh: ITN
Để làm tốt phần đọc hiểu, cô Lê Thị Tuyên, GV Trường THPT Bình Minh (Hoài Đức, Hà Nội) cho rằng: HS cần nắm vững các mức độ của câu hỏi. Cụ thể, ở dạng câu hỏi nhận biết thường yêu cầu xác định các phương thức biểu đạt, phong cách ngôn ngữ, thể thơ, nội dung của văn bản… Dạng câu hỏi thông hiểu, thường hỏi HS hiểu thế nào về câu nói trong văn bản, vì sao tác giả lại cho rằng… Dạng câu hỏi vận dụng, yêu cầu HS rút ra thông điệp có ý nghĩa, thể hiện quan điểm đồng tình hay không đồng tình…
Như vậy để làm tốt phần này, theo cô Lê Thị Tuyên, HS cần tuân thủ các bước: Đọc kĩ văn bản; đọc hết các câu hỏi một lượt, gạch chân từ ngữ trọng tâm của từng câu hỏi; lần lượt trả lời.
Giảng dạy tại một trường vùng khó khăn tại An Giang, cô Trần Thị Thanh Trang (Trường THPT Chi Lăng) lại chia sẻ kinh nghiệm giảng dạy, giúp HS học, ôn tập kiến thức phần đọc hiểu vững vàng. Cô Trang cho rằng: Với phần này, GV cần khái quát những kiến thức liên quan phần Ngữ pháp, Tiếng Việt cho HS: Đưa ví dụ mẫu để các em dễ dàng ghi nhớ kiến thức vừa học. Vận dụng, thực hành những bài tập liên quan đến kiến thức vừa ôn. Nghiên cứu đề thi của các năm, đặc biệt là phần hướng dẫn chấm từ Bộ GD&ĐT để hướng HS cách thức trả lời sao cho trọn vẹn ý. Một số câu hỏi thường gặp trong đề, GV xây dựng thành khuôn mẫu để HS bám vào đó mà thực hiện theo yêu cầu. Chẳng hạn những dạng câu như: Hỏi về hiệu quả/tác dụng của biện pháp tu từ, phương thức biểu đạt, nội dung của câu/đoạn/văn bản… Ngoài ra, GV còn chú ý rèn luyện cho HS kĩ năng làm bài sao cho bảo đảm thời gian nhanh, gọn và đạt hiệu quả.
“Với đề bài phần đọc hiểu, tôi yêu cầu HS đi từ câu hỏi phía bên dưới, sau đó trở lên phần văn bản để tìm câu/ đoạn có chứa thông tin, đọc kĩ đoạn đó, gạch từ ngữ, thông tin liên quan và trả lời. Các câu hỏi 1, 2, 3, trong phần đọc hiểu, tôi thường hướng dẫn HS trả lời ngắn gọn, đúng trọng tâm không đi lan man, dông dài. Mỗi ý trả lời tôi thường yêu cầu các em thể hiện bằng gạch đầu dòng. Câu hỏi 4 trong đề thường cho HS tự trình bày quan điểm của mình và lý giải cho sự lựa chọn đó. Với câu hỏi này, tôi lưu ý HS cần trình bày quan điểm/lựa chọn rõ ràng (đồng tình/không đồng tình/hoặc chỉ đồng tình một phần); sau đó lý giải cho lựa chọn của mình hợp lý, thuyết phục…” – cô Trần Thị Thanh Trang chia sẻ.
Muốn lấy trọn 3 điểm phần đọc hiểu, cô Nguyễn Thị Mỹ Dung cho rằng: HS phải ôn kỹ kiến thức cơ bản, như về luật thơ; phong cách ngôn ngữ cơ bản, các phương thức biểu đạt, biện pháp tu từ… Ngoài ra, các em còn phải có vốn hiểu biết về xã hội; vì câu số 4 thường hỏi thông điệp, hoặc yêu cầu rút ra bài học qua vấn đề đặt ra ở đề bài.
Đề thi HSG quốc gia môn Ngữ văn khơi gợi hứng thú và suy nghĩ độc lập
Câu nghị luận xã hội khá thú vị bởi nhiều lẽ. Trước hết là cách nhìn ra vấn đề khá độc đáo từ nhan đề một cuốn sách dịch "Con đường đi đến thành công bằng sự tử tế" thay vì những danh ngôn, quan niệm, hay những câu chuyện... như phần lớn các đề quen thuộc.
Nhận định về đề thi môn Ngữ văn Kỳ thi học sinh giỏi quốc gia THPT năm học 2019-2020, cô Trịnh Thu Tuyết - giáo viên Ngữ văn, hệ thống giáo dục Hocmai cho rằng: Cả hai câu nghị luận xã hội và nghị luận văn học đều đặt ra những vấn đề quen thuộc mà không bao giờ nhàm chán của cuộc sống và văn chương, đều không có điểm tựa nào ngoài vốn sống, vốn văn chương và năng lực nhận biết, lí giải vấn đề của thí sinh.
Câu nghị luận xã hội khá thú vị bởi nhiều lẽ. Trước hết là cách nhìn ra vấn đề khá độc đáo từ nhan đề một cuốn sách dịch "Con đường đi đến thành công bằng sự tử tế" thay vì những danh ngôn, quan niệm, hay những câu chuyện... như phần lớn các đề quen thuộc.
"Thành công" và "tử tế" là hai vấn đề thường xuất hiện độc lập trong rất nhiều đề thi, rất nhiều bài viết - sự kết nối giữa chúng với nhau trong mối quan hệ nhân quả chính là góc nhìn tạo hứng thú cho học trò trong thời đại của các trào lưu Startup và "việc tử tế" - đặc biệt khi người ta nói nhiều tới "việc tử tế" như một tín hiệu cho thấy cuộc sống đang thiếu vắng sự tử tế, và nhiều thành công bất chấp cả đạo lí lẫn pháp lí.
Câu lệnh yêu cầu trình bày "suy nghĩ của anh/chị về "con đường" này" sẽ mở ra khá nhiều khả năng kiến giải - dù có thể thấy trước hướng khẳng định sẽ chiếm tuyệt đại đa số khi làm bài, bởi học trò sẽ không khó khăn để nhận ra tính đúng đắn muôn đời của sự tử tế.
Tuy nhiên, đề bài vẫn mở ra những khoảng trống của thử thách giúp phân loại những bài viết nhằm tới cái đúng đương nhiên, an toàn với những bài viết thể hiện hiểu biết xã hội sâu rộng, thể hiện những trăn trở suy tư thấu đáo trước mối quan hệ giữa lẽ phải với thực tế cuộc sống nhiều khi trái ngược.
Học sinh sẽ thể hiện kiến thức đời sống xã hội, năng lực lí giải và nhất là bản lĩnh tự chủ của mình khi đặt được vấn đề về nghịch lí và hướng giải quyết nghịch lí khi sống tử tế, trung thực thường thua thiệt, thậm chí thất bại.
Tuy nhiên, cũng vì nghịch lí này đang trở thành lẽ đương nhiên trong thực tế cuộc sống nên nếu học sinh không có tầm nhìn sâu rộng, không có khả năng lí giải, lập luận..., đề bài dễ đưa tới những bài văn viết như... nghị quyết hay bài giáo dục công dân!
Câu nghị luận văn học đề cập vấn đề quen thuộc của lí luận văn học là chức năng văn học, đặt vấn đề cụ thể về khả năng của văn học nhằm "giúp con người hóa giải những áp lực" trong cuộc sống. Với yêu cầu này của đề bài, học trò phải nắm chắc và đề cập được tất cả các chức năng của văn học, từ nhận thức, giáo dục, thẩm mĩ, cho tới giao tiếp, giải trí...
Thử thách của đề bài không chỉ dừng lại ở phần kiến thức khá nặng của lí luận văn học vốn trừu tượng với các em mà còn hiện hữu chủ yếu ở cách các em xử lí mảng kiến thức ấy khi kết hợp với những minh chứng qua văn chương; thậm chí, khó khăn còn xuất hiện ngay trong mảng kiến thức đời sống khi các em đề cập tới những áp lực của đời sống tinh thần.
Khoảng trống trong dư địa vấn đề của câu nghị luận văn học có phần rộng hơn câu nghị luận xã hội khi học sinh hoàn toàn có thể đặt vấn đề phản biện về khả năng hóa giải áp lực tinh thần của văn chương, trong khi vấn đề về sự tử tế để thành công rất khó phản biện mà không chạm tới hàng rào đạo lí.
Thậm chí, nếu một số em cảm thấy sự bất lực của văn học với những áp lực ngày càng nặng nề trong cuộc sống thời hiện đại, các em có thể đặt ra những vấn đề lớn hơn về môi trường sống, môi trường xã hội... - cội nguồn của văn học.
Đề bài, về cơ bản có khả năng khơi gợi hứng thú và suy nghĩ độc lập cho học trò, dù vẫn hoàn toàn có khả năng tạo ra một loạt những bài viết ... như chân lí! Do vậy, khả năng phân loại và tìm ra học sinh giỏi thực sự không xuất hiện ở vấn đề mà chính là ở cách xử lí vấn đề.
PV
Theo giaoducthoidai
Tuyển sinh lớp 10: Những cái sai đến từ sự sợ hãi Ở môn ngữ văn, tâm lý chung của nhiều học sinh là luôn sợ mình bị trừ điểm vì viết không đủ ý hoặc bài làm chưa đủ dài. Trong một số trường hợp, nỗi sợ ấy đã dẫn các em đến những lỗi sai rất cơ bản. Học sinh bước vào giai đoạn ôn thi - ĐỨC UY Chỉ còn khoảng 5...