Mở ra những cánh cửa mới với nguồn vốn ngoại
Ba luật được sửa đổi gồm Luật Chứng khoán, Luật Doanh nghiệp và Luật Đầu tư, cùng có hiệu lực từ 1/1/2021, được kỳ vọng sẽ tạo ra làn sóng dòng vốn ngoại mới đổ vào Việt Nam.
Đồng bộ giải pháp
Sau khi Bộ Chính trị ban hành Nghị quyết số 50-NQ/TW ngày 20/8/2019 về định hướng hoàn thiện thể chế, chính sách, nâng cao chất lượng, hiệu quả hợp tác đầu tư nước ngoài đến năm 2030, Quốc hội, Chính phủ đã rốt ráo triển khai nhiều bước đi quyết liệt nhằm đưa ra các giải pháp mang tính đồng bộ, khả thi cho quyết tâm thu hút mạnh mẽ dòng vốn đầu tư nước ngoài vào Việt Nam.
Ở tầm Quốc hội, sau khi thông qua Luật Chứng khoán (sửa đổi) vào cuối năm 2019, tại Kỳ họp thứ 9 vừa qua, Quốc hội đã thông qua hai luật quan trọng có tác động lớn đến đời sống doanh nghiệp cũng như môi trường đầu tư, kinh doanh là Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) và Luật Đầu tư (sửa đổi).
Một điểm đáng chú ý trong các nội dung mới của cả 3 luật này là sự phối hợp đồng bộ trong thực thi cả giải pháp thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) lẫn dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài (FII). Tính đồng bộ này không chỉ thể hiện qua các nội dung của các luật, mà còn ở cả hệ thống văn bản hướng dẫn, đều có hiệu lực từ ngày 1/1/2021.
Từ quy định của 3 luật, trên cơ sở chỉ đạo sát sao của Chính phủ, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Bộ Tài chính đang khẩn trương xây dựng các văn bản hướng dẫn luật.
Liên quan đến quy định của pháp luật chứng khoán, tại dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Chứng khoán mà Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) đang hoàn thiện, cơ quan soạn thảo đề xuất bỏ quy định cho phép doanh nghiệp trên sàn chứng khoán tự quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần áp dụng với nhà đầu tư nước ngoài (quy định hiện hành tại Nghị định 60/2015/NĐ-CP trao quyền cho doanh nghiệp định đoạt việc nới room đối với những công ty hoạt động trong các ngành, lĩnh vực không hạn chế nhà đầu tư nước ngoài sở hữu cổ phần).
Tuy quy định này hiện còn có những ý kiến trái chiều do quan ngại pháp luật can thiệp vào quyền của doanh nghiệp, nhưng với mục tiêu làm cho quy định về nới room trở nên minh bạch và dễ áp dụng hơn với nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp nới room thay vì có bước đi thụt lùi trong nới room (điều chỉnh room xuống dưới 49%, rõ ràng ý tưởng của nhà quản lý là đáng ghi nhận.
Vấn đề còn lại là cách nào vừa khích lệ các doanh nghiệp nới room lên trên mức 49%, nhưng quy định của pháp luật không can thiệp sâu vào quyền quyết định của doanh nghiệp.
Để minh bạch hóa hoạt động nới room của doanh nghiệp, tại dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Chứng khoán, Bộ Tài chính, UBCK đề xuất, công ty đại chúng có trách nhiệm xác định ngành nghề kinh doanh và thực hiện thủ tục thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa trong vòng 7 ngày làm việc, kể từ ngày UBCK xác nhận hoàn tất việc đăng ký công ty đại chúng.
Các công ty đại chúng chưa thực hiện báo cáo UBCK về tỷ lệ sở hữu nước ngoài phải thực hiện thủ tục thông báo tỷ lệ sở hữu nước ngoài tối đa trong thời hạn 2 năm, kể từ ngày nghị định này có hiệu lực.
Tổ chức kinh tế là công ty cổ phần, công ty trách nhiệm hữu hạn có nhà đầu tư nước ngoài sở hữu từ 51% vốn điều lệ khi đầu tư, giao dịch trên thị trường chứng khoán (TTCK) phải thực hiện trình tự, thủ tục đầu tư trên TTCK như nhà đầu tư nước ngoài.
Tổ chức kinh tế phải thực hiện đăng ký mã số giao dịch chứng khoán thông qua thành viên lưu ký khi mở tài khoản giao dịch chứng khoán, hoặc thông báo cho thành viên lưu ký trong vòng 3 ngày làm việc kể từ ngày có tỷ lệ sở hữu của nhà đầu tư nước ngoài đạt từ 51% vốn điều lệ trở lên…
Thêm một lối mở cho nhà đầu tư ngoại
Trong khi con đường nới room trực tiếp cho nhà đầu tư nước ngoài đang chờ ý kiến góp ý đa chiều từ các thành viên thị trường và các chuyên gia để đảm bảo tính khả thi, thì Luật Doanh nghiệp lần đầu tiên đưa ra quy định mới về phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết (NVDR).
Đây là một hướng tiếp cận mới nhằm cải thiện khả năng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài thông qua TTCK.
Theo tinh thần của Luật Doanh nghiệp, cổ phần phổ thông được dùng làm tài sản cơ sở để phát hành NVDR được gọi là cổ phần phổ thông cơ sở. NVDR có lợi ích kinh tế và nghĩa vụ tương ứng với cổ phần phổ thông cơ sở.
Người sở hữu cổ phần cơ sở và NVDR đều không có quyền biểu quyết, trừ trường hợp thông qua nghị quyết có tác động bất lợi đến quyền và nghĩa vụ của người sở hữu cổ phần cơ sở.
Video đang HOT
Quyền biểu quyết của các cổ phần cơ sở được phân bổ cho các cổ đông khác tương ứng tỷ lệ sở hữu cổ phần của các cổ đông đó, nhưng đảm bảo quyền biểu quyết của các cổ đông nước ngoài không vượt quá giới hạn tỷ lệ sở hữu theo pháp luật có liên quan…
Để cụ thể hóa nội dung này, Quốc hội giao Chính phủ hướng dẫn chi tiết.
Quy định mới về NVDR được bổ sung vào Luật Doanh nghiệp là kết quả của quá trình Ban soạn thảo đã lắng nghe ý kiến từ thị trường, từ cộng đồng doanh nghiệp. Trên thực tế, Sở Giao dịch chứng khoán TP.HCM (HOSE) đã có nhiều năm nghiên cứu về NVDR trên cơ sở kinh nghiệm triển khai ở một số thị trường, trong đó có Thái Lan.
Đại diện HOSE cho biết, trên cơ sở quy định mới của Luật Doanh nghiệp, việc triển khai NVDR tại Việt Nam là khả thi. Qua đó, công cụ này vừa giải quyết được bài toán cải thiện khả năng thu hút vốn đầu tư nước ngoài thông qua TTCK, vừa đáp ứng được yêu cầu kiểm soát doanh nghiệp của nhà đầu tư trong nước.
“Việc Luật Doanh nghiệp lần đầu tiên cho phép phát hành chứng chỉ lưu ký không có quyền biểu quyết ở Việt Nam là một điểm mới đáng mừng. Khi áp dụng cơ chế này sẽ góp phần cải thiện khả năng thu hút dòng vốn đầu tư nước ngoài cho TTCK ngay cả trong bối cảnh cơ chế về nới room có được áp dụng hay không”, ông Nguyễn Văn Mạnh, chuyên gia chứng khoán đánh giá.
Vị chuyên gia này cho rằng, cái hay của NVDR là đáp ứng cả nhu cầu của nhà đầu tư nước ngoài lẫn doanh nghiệp.
Với nhà đầu tư nước ngoài, họ có cơ hội giao dịch NVDR dựa trên những cổ phiếu cơ sở đã hết room và không quan tâm đến tham gia các quyết định tại doanh nghiệp. Trong khi đó, doanh nghiệp giữ được quyền kiểm soát công ty, nhưng vẫn có cơ hội thu hút vốn ngoại.
Theo ông Phan Đức Hiếu, Phó viện trưởng Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, NVDR sẽ mở thêm kênh huy động vốn từ các nhà đầu tư trong và ngoài nước cho doanh nghiệp. Đây là nỗ lực của nhà hoạch định chính sách để tạo thuận lợi cho người kinh doanh trong sử dụng hiệu quả hơn công ty với tư cách là một công cụ huy động vốn để sản xuất – kinh doanh.
Một điểm mới khác của Luật Doanh nghiệp đang được trông đợi sẽ tiếp sức cho sự phát triển của TTCK, qua đó thu hút nhà đầu tư, trong đó có nhà đầu tư ngoại là quy định về mở rộng quyền của cổ đông phổ thông.
Theo đó, cổ đông, nhóm cổ đông sở hữu ít nhất 1% số cổ phần phổ thông (bỏ điều kiện phải nắm giữ cổ phần liên tục trong thời hạn 6 tháng) có quyền tự mình hoặc nhân danh công ty khởi kiện trách nhiệm cá nhân, trách nhiệm liên đới đối với các thành viên hội đồng quản trị, tổng giám đốc để yêu cầu hoàn trả lợi ích hoặc bồi thường các thiệt hại cho công ty hoặc người khác trong các trường hợp: vi phạm trách nhiệm người quản lý công ty; không thực hiện đúng các quyền và nghĩa vụ được giao; không thực hiện, thực hiện không đầy đủ, không kịp thời nghị quyết của hội đồng quản trị; sử dụng thông tin, bí quyết, cơ hội kinh doanh của công ty để tư lợi hoặc phục vụ cho lợi ích của tổ chức, cá nhân khác…
Ngoài ra, cổ đông, nhóm cổ đông này còn có quyền xem xét, tra cứu, trích lục các thông tin cần thiết theo quyết định của tòa án hoặc trọng tài trước hoặc trong quá trình khởi kiện.
Thị trường chờ hướng dẫn sớm
Liên quan đến quy định của pháp luật chứng khoán, tại dự thảo Nghị định hướng dẫn Luật Chứng khoán mà Bộ Tài chính, Ủy ban Chứng khoán Nhà nước (UBCK) đang hoàn thiện, cơ quan soạn thảo đề xuất bỏ quy định cho phép doanh nghiệp trên sàn chứng khoán tự quy định về tỷ lệ sở hữu cổ phần áp dụng với nhà đầu tư nước ngoài (quy định hiện hành tại Nghị định 60/2015/NĐ-CP trao quyền cho doanh nghiệp định đoạt việc nới room đối với những công ty hoạt động trong các ngành, lĩnh vực không hạn chế nhà đầu tư nước ngoài sở hữu cổ phần).
Tuy quy định này hiện còn có những ý kiến trái chiều do quan ngại pháp luật can thiệp vào quyền của doanh nghiệp, nhưng với mục tiêu làm cho quy định về nới room trở nên minh bạch và dễ áp dụng hơn với nhà đầu tư nước ngoài, đồng thời thúc đẩy các doanh nghiệp nới room thay vì có bước đi thụt lùi trong nới room (điều chỉnh room xuống dưới 49%, rõ ràng ý tưởng của nhà quản lý là đáng ghi nhận.
Vấn đề còn lại là cách nào vừa khích lệ các doanh nghiệp nới room lên trên mức 49%, nhưng quy định của pháp luật không can thiệp sâu vào quyền quyết định của doanh nghiệp.
Với những quy định mới như trên của cả 3 luật, nhà quản lý lẫn các thành viên thị trường đều kỳ vọng sẽ có làn sóng vốn FDI và FII đổ vào Việt Nam trong thời gian tới. Không chỉ vì quy định pháp lý thông thoáng, mà quan trọng hơn là môi trường đầu tư, kinh doanh của Việt Nam đang có những lợi thể nổi bật hậu Covid-19, đồng thời các giải pháp thu hút vốn đầu tư nước ngoài đang được tập trung triển khai.
Đại diện UBCK nhìn nhận, khi cơ chế nới room cho nhà đầu tư nước ngoài được quy định minh bạch, thì ngoài ý nghĩa trực diện thu hút thêm dòng vốn ngoại còn góp phần giúp Việt Nam sớm thành công trong nâng hạng TTCK từ cận biên lên mới nổi, qua đó tạo thêm những điểm hấp dẫn mới cho TTCK trong hút dòng vốn đầu tư nước ngoài.
Việc xác định room sẽ thuận lợi hơn
Ông Quách Ngọc Tuấn, Phó vụ trưởng Vụ Pháp chế, Bộ Kế hoạch và Đầu tư.
Danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài hiện được quy định rải rác ở nhiều văn bản như các hiệp định thương mại; các luật, nghị quyết của Quốc hội; pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội…, nên gây khó khăn cho doanh nghiệp, cũng như cơ quan quản lý trong xác định tỷ lệ sở hữu cổ phần tối đa áp dụng với nhà đầu tư nước ngoài do phải mất thời gian đối chiếu với nhiều văn bản.
Để khắc phục tình trạng trên, Luật Đầu tư đã trao cho Chính phủ thẩm quyền công bố danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài gồm ngành, nghề chưa được tiếp cận thị trường; ngành, nghề tiếp cận thị trường có điều kiện.
Điều này vừa cho phép kịp thời điều chỉnh chính sách khi có các biến động về danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài, để phù hợp với thực tiễn cuộc sống, vừa giúp cho việc công khai danh mục này chuyên nghiệp, minh bạch, tập trung một đầu mối.
Chính phủ đang xây dựng danh mục ngành, nghề hạn chế tiếp cận thị trường đối với nhà đầu tư nước ngoài để đảm bảo ban hành và có hiệu lực cùng thời điểm với Luật Đầu tư từ ngày 1/1/2021.
Với danh mục này, doanh nghiệp, nhà quản lý, nhà đầu tư dễ dàng tiếp cận để xác định room, mà không phải mất thời gian đối chiếu với nhiều văn bản quy phạm pháp luật (việc đối chiếu nếu không có chuyên môn và kỹ thuật sâu thì không dễ thực hiện).
Liên quan đến xác định room tại các doanh nghiệp trên sàn chứng khoán, Luật Đầu tư và Luật Chứng khoán đã định rõ nguyên tắc.
Theo đó, với những nội dung đã được quy định tại pháp luật chuyên ngành, thì các quy định về room sẽ áp dụng theo quy định của pháp luật chứng khoán.
Còn các quy định chung mà không được quy định trong pháp luật chuyên ngành, thì sẽ áp dụng theo quy định của pháp luật đầu tư. Các nội dung chi tiết đang được Chính phủ chỉ đạo các cơ quan phối hợp xây dựng, để đảm bảo tính đồng bộ, khả thi.
Xây dựng chi tiết hướng dẫn về nhà đầu tư nước ngoài tham gia TTCK Việt Nam
Ông Nguyễn Quang Việt, Vụ trưởng Vụ Pháp chế, UBCK.
Một trong những hạn chế của Luật Chứng khoán hiện hành là chưa có quy định về tham gia của nhà đầu tư nước ngoài trên TTCK Việt Nam mang tính đặc thù, nhằm tạo cơ sở pháp lý cho triển khai các giải pháp để thu hút vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài.
Để khắc phục tình trạng trên, qua đó mở cửa TTCK cho nhà đầu tư nước ngoài được thực hiện từng bước theo lộ trình, điểm mới của Luật Chứng khoán sửa đổi, có hiệu lực từ ngày 1/1/2021, là định ra nguyên tắc nhà đầu tư nước ngoài, tổ chức kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài khi tham gia, hoạt động trên TTCK Việt Nam tuân thủ theo quy định về tỷ lệ sở hữu nước ngoài, điều kiện, trình tự, thủ tục đầu tư… theo quy định của pháp luật về chứng khoán.
Nội dung mới này được cụ thể hóa tại các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán sửa đổi đang được khẩn trương hoàn thiện, để đảm bảo được ban hành và có hiệu lực đồng bộ với thời điểm Luật mới có hiệu lực.
Xử lý chuyển giá chuẩn chỉnh để thu hút vốn ngoại
Theo Kiểm toán nhà nước, Việt Nam có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó, nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liên tiếp, tuy nhiên không có có sở để khẳng định các doanh nghiệp này đang chuyển giá bất hợp pháp.
"Chuyển giá" luôn là một vấn đề nổi cộm trong quản lý thuế, không chỉ ở Việt Nam mà ở cả nhiều quốc gia khác trên thế giới, đặc biệt khi hiện nay vẫn còn tồn tại nhiều vấn đề tranh cãi về khái niệm "chuyển giá" và cách thức xác định cũng như xử lý các giao dịch liên kết. Chính vì vậy, hoàn thiện hệ thống pháp luật để quản lý thuế đối với các doanh nghiệp có giao dịch liên kết phù hợp với các thông lệ quốc tế là vô cùng quan trọng để đảm bảo tính minh bạch và ổn định của môi trường đầu tư.
Theo lý thuyết, chuyển giá là việc thực hiện chính sách giá đối với hàng hóa, dịch vụ và tài sản được chuyển dịch giữa các thành viên trong tập đoàn hay nhóm liên kết không theo giá thị trường nhằm tối thiểu hóa số thuế của các tập đoàn hay của nhóm liên kết. Đầu tiên phải khẳng định, chuyển giá là một hoạt động phổ biến trong các tập đoàn cả trong và ngoài nước.
Liệu lỗ kéo dài mà vẫn đầu tư là dấu hiệu chuyển giá?
Có khá nhiều cơ quan quản lý và người tiêu dùng đặt vấn đề "nghi vấn chuyển giá" cho một số doanh nghiệp lỗ kéo dài nhiều năm mà vẫn đầu tư. Quan điểm này cần phải xem xét lại từ cả góc độ chuyên môn và thực tiễn.
Trong một cuộc trao đổi với Thời báo Tài chính Việt Nam gần đây, chuyên gia kinh tế, TS. Vũ Đình Ánh đã bày tỏ quan điểm "Nếu chỉ căn cứ vào việc một doanh nghiệp nào đó liên tục báo lỗ, nhưng vẫn mở rộng sản xuất và đầu tư, thì chưa đầy đủ, chưa đúng bản chất và thiếu tính thuyết phục, do có vô vàn lý do để xảy ra tình trạng đó... cốt lõi để phát hiện chuyển giá chính là nắm được giá thị trường để làm căn cứ phát hiện và xử lý những giao dịch dựa trên quan hệ liên kết với giá phi thị trường."
Trên thực tế có khá nhiều tập đoàn lớn đa quốc gia vì lý do giữ thị trường và thị phần, sẵn sàng kinh doanh lỗ trong nhiều năm và tiếp tục đầu tư để hy vọng có thể thay đổi tình hình trong tương lai.
Đối với những tập đoàn này, việc giữ lại một thị trường và thương hiệu trên thị trường đó thay vì đóng cửa bỏ đi khỏi thị trường và làm hàng chục ngàn người mất việc có giá trị lớn hơn nhiều so với số lỗ mà họ phải chịu.
Chính vì thế mà rất nhiều tập đoàn đa quốc gia có thương hiệu mạnh chịu lỗ đến 10 -20 năm để duy trì thương hiệu của họ trên thị trường.
Theo Kiểm toán nhà nước, Việt Nam có khoảng 50% doanh nghiệp FDI kê khai lỗ, trong đó, nhiều doanh nghiệp thua lỗ liên tục trong nhiều năm liên tiếp. Nhưng nếu chỉ nhìn vào con số nói trên thì không thể khẳng định tất cả những doanh nghiệp này đang chuyển giá bất hợp pháp.
Vì vậy các cơ quan quản lý và người tiêu dùng cần đánh giá một cách khách quan và tránh có kết luận vội vàng khi chưa có căn cứ để tránh ảnh hưởng đến uy tín của doanh nghiệp.
Việc hiểu rõ về khái niệm "chuyển giá", cũng như xác định rõ bản chất của các giao dịch liên kết và hoạt động chuyển giá trong doanh nghiệp là vô cùng quan trọng để phân định đây là một hoạt động tài chính thông thường hay là một hành vi lạm dụng chuyển giá nhằm mục đích trốn thuế. Khi đã có sự đồng thuận về cách hiểu giữa cơ quan quản lý và doanh nghiệp, các vấn đề đều sẽ được giải quyết trên cơ sở minh bạch, rõ ràng, đảm bảo quyền lợi chính đáng của cả nhà nước và doanh nghiệp.
Xử lý "chuyển giá" hiệu quả, theo thông lệ quốc tế
Theo TS. Vũ Đình Ánh, muốn xác định được lợi nhuận thực, phải xác định được giá trị đầu tư thực, xác định được doanh thu thực và chi phí thực.
Trong khi chúng ta còn quá nhiều lỗ hổng trong quản lý doanh thu, chi phí thực của DN thì hô hào xác định lợi nhuận thực, hay lợi nhuận hoạt động của DN để chống chuyển giá là không thực tế, thiếu khả thi và thiếu hiệu quả.
Ông cũng đề xuất cần kiện toàn hệ thống pháp luật chống chuyển giá của Việt Nam bằng cách ban hành Luật Chống chuyển giá, để tất cả các nội dung chống chuyển giá, từ phòng ngừa, ngăn chặn, đến phát hiện, xử lý hành vi chuyển giá đều được quy định trong luật này.
Từ góc nhìn của các nhà đầu tư nước ngoài, Ông Adam Sitkoff, Giám đốc điều hành Amcham Hà Nội cũng từng bày tỏ quan ngại với cách nhìn nhận khá phổ biến về chuyển giá ở các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài.
Ông mong rằng nên có cách nhìn công bằng hơn đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, không nên vội qui kết rằng họ chuyển giá, trốn thuế nếu họ kinh doanh không có lãi trong nhiều năm. Theo ông, trong bối cảnh Việt Nam đang hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu, các giao dịch liên kết và xuyên quốc gia sẽ ngày càng nhiều hơn. Cách nhìn nhận không phù hợp và thiếu khách quan về những giao dịch này sẽ tạo nên những thách thức và rào cản đối các nhà đầu tư xuyên quốc gia khi quyết định đầu tư tại Việt Nam. Ông Adam cũng cho rằng cần thiết phải có những phương pháp xác định các mức giá phù hợp đối với các giao dịch này, bao gồm cả các giao dịch hữu hình, vô hình, dịch vụ, tài chính hay phân bổ chi phí/cổ phần.
Mô hình phổ biến nhất để thực hiện điều này là của Tổ chức Hợp tác kinh tế và phát triển (OECD) với nguyên tắc cơ bản là khái niệm "giá thị trường". OECD đã giải quyết vấn đề không rõ ràng này bằng cách cung cấp các hướng dẫn liên quan đến thỏa thuận trước về giá. Theo đó, các doanh nghiệp có thể cung cấp cơ sở cho việc định giá của bên liên quan cho cơ quan thuế phê duyệt trước khi thực hiện giao dịch.
Trước đó, một chuyên gia là Cố vấn cấp cao của Trung tâm Thuế và Đầu tư quốc tế cho rằng chuyển giá là các quy tắc và phương pháp định giá cho các giao dịch nội bộ và giữa các doanh nghiệp thuộc cùng một hệ thống sở hữu hoặc kiểm soát. Do những giao dịch liên kết xuyên biên giới có thể làm thay đổi thu nhập chịu thuế, các cơ quan thuế ở nhiều quốc gia có thể áp dụng những phương pháp xác định giá khác với những phương pháp thông thường dựa trên giá thị trường giữa những doanh nghiệp độc lập.
Chuyên gia cho rằng bản chất chuyển giá không phải là một hoạt động bất hợp pháp. Chỉ có gian lận về giá hay lạm dụng chuyển giá nhằm mục đích trốn thuế mới là bất hợp pháp.
Kuwait được nâng hạng từ tháng 11/2020, cơ hội vốn ngoại chảy mạnh hơn vào chứng khoán Việt Nam Vào 3h sáng ngày 24/6/2020, MSCI đã công bố Báo các xếp hạng thị trường năm 2020. Trong báo cáo, Việt Nam tiếp tục nằm trong nhóm thị trường cận biên (Frontier Market). Trước đó, SSI Research cho biết rằng, khả năng nâng hạng thị trường sẽ rõ hơn kể từ năm 2021 đối với Việt Nam khi nhiều văn bản pháp lý...