MBS: Ngân hàng trong đại dịch Covid-19 kiên cường hơn so với khủng hoảng tài chính 2008
Đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến ngành ngân hàng Việt Nam ở mức độ nhất định, khiến chi phí dự phòng tăng mạnh trong quý I và quý II năm 2020.
NHNN đã tích lũy một khoản lớn dự trữ quốc tế như một bộ đệm tốt để bảo vệ tỷ giá hối đoái và lạm phát trong các kịch bản tiêu cực.
Công ty Chứng khoán MB (MBS) vừa có báo cáo cập nhật về ngành ngân hàng trong bối cảnh dịch Covid-19 tác động đến kinh tế. Báo cáo đề cập dù có đòn bẩy tương đối cao, tiềm năng tăng tài sản của ngành ngân hàng Việt Nam vẫn được củng cố bởi tăng trưởng kinh tế vững chắc, sự bùng nổ của tầng lớp trung lưu và nhu cầu phát triển cơ sở hạ tầng và phát triển bất động sản.
Tỷ lệ dư nợ tín dụng trên GDP của Việt Nam đã tăng từ mức 99% năm 2009 lên 135% tới cuối tháng 4/2020. Tăng trưởng tín dụng chậm lại vào đầu năm 2020 do tác động của dịch Covid-19. Tuy nhiên, MBS nhận định đà tăng có thể phục hồi vào cuối năm 2020 và 2021 nhờ nhu cầu triển khai đầu tư hạ tầng.
Tầm quan trọng và vị thế của các ngân hàng Việt Nam so với các nước khác ở châu Á vẫn còn khiêm tốn với tỷ lệ dư nợ tín dụng/GDP, thấp hơn nhiều so với Nhật Bản (169%), Trung Quốc (161%), Hàn Quốc (163%) và Thái Lan (144%).
MBS kỳ vọng tổng dư nợ tín dụng quốc gia trong dài hạn sẽ tăng nhờ tăng trưởng GDP bình quân đầu người và định hướng thúc đẩy dư nợ tín dụng/GDP sẽ tiếp tục tăng.
Video đang HOT
MBS cho rằng ngành ngân hàng ít chịu thiệt hại hơn các ngành khác, một phần nhờ hệ thống ngân hàng hiện nay đã khỏe mạnh hơn nhiều so với năm 2008. Ảnh: L.H.
CTCK này cho rằng diễn biến giá dầu và ảnh hưởng của kinh tế toàn cầu tác động tiêu cực đến dư nợ cho vay của các ngân hàng Việt Nam do nhiều ngành nghề như sản phẩm xuất khẩu sản xuất như hàng may mặc, giày dép, thủy sản, dầu khí, bất động sản và xây dựng, hàng không chịu ảnh hưởng.
Sự bùng nổ đại dịch đã tác động tiêu cực đến nền kinh tế và ngân hàng Việt Nam. Tuy nhiên, hệ thống hiện nay đã kiên cường hơn trong việc chống chọi với cơn hoảng loạn so với trong cuộc khủng hoảng tài chính 2008.
Các khoản vay cá nhân, lĩnh vực chịu ảnh hưởng gián tiếp thông qua thất nghiệp gia tăng, chiếm 42% danh mục của ngân hàng. Dù phân khúc bán lẻ rủi ro hơn doanh nghiệp, MBS cho rằng thiệt hại sẽ được giảm nhẹ một phần nhờ xu hướng tiết kiệm tiền mặt của công dân Việt Nam.
Bên cạnh đó, các ngân hàng Việt Nam cũng xây dựng bảng cân đối kế toán tốt hơn và ổn định hơn. Tỷ lệ cho vay tiền gửi (LDR) đã giảm từ hơn 100% trong giai đoạn 2009-2012 (đạt đỉnh ở mức 116% trong năm 2011) về mức 93% đến cuối tháng 2.
NHNN đã tích lũy một khoản lớn dự trữ quốc tế như một bộ đệm tốt để bảo vệ tỷ giá hối đoái và lạm phát trong các kịch bản tiêu cực.
Sự vững chắc của hệ thống ngân hàng Việt Nam cũng được thể hiện qua các khoản đầu tư chiến lược từ các đối tác nước ngoài. Từ năm 2012, các ngân hàng Việt Nam đã nhận đầu tư khoảng 3,2 tỷ USD, riêng 3 ngân hàng quốc doanh đã hút 2,4 tỷ USD.
MBS nhận định đại dịch Covid-19 ảnh hưởng đến ngành ngân hàng Việt Nam ở mức độ nhất định, khiến chi phí dự phòng tăng mạnh trong quý I và quý II/2020, đặc biệt là đối với các ngân hàng tập trung cho vay nhiều ở lĩnh vực du lịch, hàng không và gia công. Tuy nhiên, ngân hàng sẽ ít thiệt hại hơn các ngành khác. Ngoài ra, hệ thống ngân hàng đã tốt hơn nhiều so với năm 2008, có khả năng vượt qua cuộc khủng hoảng này.
Doanh nghiệp bất động sản chiếm 63% lượng trái phiếu phát hành quý I và có lãi suất cao nhất
Các doanh nghiệp bất động sản phát hành trái phiếu nhiều do quy định mới của Ngân hàng Nhà nước đã siêt chặt kênh vay vôn qua ngân hàng cho mục đích kinh doanh bât động sản.
Công ty Chứng khoán MB (MBS) vừa công bố báo cáo trái phiếu doanh nghiệp (TPDN) quý 1/2020 cho biết, do ảnh hưởng của Covid-19 nên hoạt động phát hành TPDN tăng trưởng khiêm tốn, chỉ tăng 4% so với cùng kỳ năm 2019.
Cụ thể, trong quý I/2020, có 63 doanh nghiệp phát hành 47.102 tỷ đồng trái phiếu trong tổng số 63.914 tỷ đồng được chào bán, đạt tỷ lệ phát hành 73%. Kỳ hạn trung bình của các trái phiếu phát hành là 3,7 năm, thấp hơn so với mức bình quân năm 2019 là 4,08 năm. Mặt bằng lãi suất suất bình quân khoảng 10,1%/năm.
Trong đó, các doanh nghiệp kinh doanh bất động sản phát hành tới 29.857 tỷ đồng trái phiếu, chiếm 63% lượng trái phiếu phát hành trong quý. Mặt bằng lãi suất bình quân của trái phiếu từ nhóm này cũng cao nhất, trung bình 10,7%/năm.
Một lý do để các doanh nghiệp nhóm này tăng cường phát hành trái phiếu là do quy định mới của Ngân hàng Nhà nước đã siết chặt kênh vay vốn qua ngân hàng cho mục đích kinh doanh bất động sản trong thời gian tới.
Ngoài ra, trong giai đoạn dịch bệnh, các ngân hàng càng phải tăng cường kiểm soát hồ sơ vay vốn chặt chẽ nhằm hạn chế nợ xấu, các doanh nghiệp bất động sản muốn cơ cấu nợ cũng sẽ tìm đến kênh trái phiếu.
Trong khi năm 2019 nhóm ngân hàng phát hành tới 37% lượng trái phiếu trên thị trường, thì trong quý I/2020 mới chỉ có vỏn vẹn 2 ngân hàng là TPB và ACB huy động thành công 940 tỷ đồng qua kênh này, chiếm hơn 2% lượng trái phiếu được phát hành.
Trái phiếu nhóm ngân hàng có kỳ hạn trung bình dài nhất là 7,7 năm, gấp đôi so với kỳ hạn bình quân cả thị trường, trong khi lãi suất trung bình là 9,3%/năm, thấp hơn so với bình quân.
Trong các quý tiếp theo, các ngân hàng dự kiến sẽ tăng cường phát hành trái phiếu do nhu cầu tăng vốn huy động kỳ hạn dài, cải thiện tỷ lệ sử dụng vốn ngắn hạn cho vay trung dài hạn, nhất là các ngân hàng thương mại thuộc sở hữu của nhà nước để tuân thủ quy định mới của Ngân hàng Nhà nước.
Trái phiếu của các công ty chứng khoán như thường lệ vẫn có kỳ hạn ngắn và lãi suất tương đối thấp, chủ yếu để phục vụ mục đích cho vay margin. Kỳ hạn bình quân trái phiếu phát hành bởi nhóm này là 2 năm và lãi suất 8,6%, thấp hơn 1,5% so với lãi suất bình quân.
Hiệu ứng của dòng tiền mới Đầu tư trên TTCK có thắng, có thua, nhưng việc có gần 40.000 tài khoản được mở mới trên TTCK chỉ trong tháng 4 vừa qua cho thấy, người dân Việt Nam rất quan tâm đến kênh đầu tư chứng khoán và nhạy bén với các cơ hội thị trường. Tổng giám đốc Công ty Chứng khoán MB (MBS) Trần Hải Hà trao...