Máu nhiễm mỡ và những biến chứng
Máu nhiễm mỡ sẽ tạo điều kiện thuận lợi hình thành các mảng xơ vữa ở thành mạch máu, gây hẹp lòng mạch, tãng huyết áp, thiếu máu cơ tim, thiếu máu não… Nhiều biến chứng có thể xảy ra ở người máu nhiễm mỡ không được điều trị kịp thời.
Bệnh tim mạch: Tăng cholesterol trong máu là nguyên nhân chủ yếu của quá trình xơ vữa và dần làm hẹp các động mạch cung cấp máu cho tim. Đặc biệt, khi cả cholesterol và triglyceride cùng gia tăng thì nguy cơ này cao hơn gấp nhiều lần và thúc đẩy nhanh hơn quá trình xơ vữa động mạch, dẫn đến hậu quả nghiêm trọng gây thiếu máu cơ tim, nguy hiểm hơn là nhồi máu cơ tim. Có đến 90% trường hợp nhồi máu cơ tim là do biến chứng của mảng xơ vữa.
Cao huyết áp: Tăng mỡ máu gây nên các mảng xơ vữa, khiến lòng mạch hẹp lại, thành mạch kém đàn hồi làm tăng sức đề kháng lên lòng mạch máu. Để cung cấp đầy đủ nhu cầu máu, cơ thể có những đáp ứng như tăng nhịp tim, tăng sức co bóp cơ tim, tăng hấp thu giữ nước trong cơ thể… dẫn đến cao huyết áp.
Khám cho bệnh nhân tại Bệnh viện Tim Hà Nội. Ảnh: Công Hùng
Bên cạnh đó, tăng mỡ máu còn làm tăng độ nhớt của máu. Đây cũng là một yếu tố góp phần làm cao huyết áp. Bản thân cao huyết áp lại làm tổn thương nội mô mạch máu, các LDL dư thừa trong máu bị oxy hóa dễ dàng xâm nhập và làm nặng hơn tình trạng xơ vữa. Cao huyết áp dễ dẫn đến các bệnh lý tim mạch nguy hiểm, suy thận, tổn thương động mạch mắt gây mù lòa, tai biến mạch máu não…
Đột quỵ: Rối loạn chuyển hóa lipid máu, đặc biệt ở người tăng cholesterol, khiến cho tinh thể cholesterol dễ lắng đọng trong thành mạch, hình thành mảng xơ vữa. Các mảng xơ vữa di chuyển từ nơi khác đến hoặc hình thành ngay tại mạch máu não sẽ làm hẹp lòng mạch, dẫn đến giảm lưu lượng tuần hoàn và gây thiếu máu não. Ở giai đoạn nặng hơn, dòng máu lên não có thể bị tắc nghẽn hoàn toàn và gây ra đột quỵ não (nhồi máu não). Rối loạn mỡ máu cùng với sự tổn thương nội mạc mạch máu do gốc tự do gây ra càng làm tăng nguy cơ bệnh lý mạch máu não. Thống kê cho thấy, khoảng 93% bệnh nhân đột quỵ não có rối loạn mỡ máu.
Gan nhiễm mỡ: Gan nhiễm mỡ là khi có sự tích luỹ của chất béo trong gan vượt quá 5% trọng lượng của gan. Gan nhiễm mỡ thường không có triệu chứng rõ ràng, mặc dù nó trực tiếp gây suy giảm chức năng gan và làm xơ gan. Người bệnh có thể chỉ cảm thấy mệt mỏi và khó chịu ở vùng thượng vị và hạ sườn phải. Tình trạng gan nhiễm mỡ nặng có thể có biểu hiện vàng da, đau bụng, buồn nôn, ói mửa và gan to.
Sỏi mật: Khi lượng cholesterol trong cơ thể gia tăng, nồng độ của chúng trong mật cao, nồng độ muối mật thấp, cùng với sự ứ đọng dịch mật, cholesterol sẽ bị kết tủa trong dịch mật hình thành sỏi mật. Sỏi mật có thể làm viêm túi mật, nguy cơ tắc ống dẫn mật, gây đau bụng, buồn nôn, sốt, vàng da…
Đái tháo đường: Rối loạn chuyển hóa lipid máu làm tăng các chất béo tự do trong máu, làm chết hoặc rối loạn chức năng tế bào tụy, dẫn đến suy giảm bài tiết insulin, gây tăng đường huyết. Rối loạn mỡ máu kéo theo rối loạn chuyển hóa đường; đồng thời bệnh tiểu đường lâu dần cũng sẽ gây ra rối loạn mỡ máu. Vì vậy, hai bệnh này có liên quan với nhau rất chặt chẽ. Hầu hết bệnh nhân đái tháo đường có rối loạn mỡ máu.
Béo phì: Bệnh béo phì làm tăng nồng độ triglyceride và LDL-cholesterol, làm giảm nồng độ HDL-cholesterol trong máu.
Khoảng 90% bệnh nhân béo phì, béo bụng gặp rối loạn chuyển hóa lipid máu. Đây chính là một trong những yếu tố quan trọng hình thành và phát triển bệnh xơ vữa động mạch. Do đó, việc phát hiện sớm rối loạn mỡ máu ở bệnh nhân béo phì có thể giúp điều trị và dự phòng sớm những hậu quả do béo phì gây ra.
Video đang HOT
Điều trị bệnh máu nhiễm mỡ bằng cách điều chỉnh chế độ ăn uống, sinh hoạt: tăng cường vận động, ăn giảm béo, hạn chế ăn các loại phủ tạng động vật, thay thế mỡ động vật bằng dầu thực vật, ăn nhiều thực phẩm có chất xơ, khuyến khích ăn cá nước ngọt… Dùng thuốc: có thể dùng một trong những thuốc nhóm statin (nên bắt đầu từ liều thấp, liều này vẫn có thể tăng gấp đôi nếu không đạt hiệu quả sau 4 – 6 tuần điều trị).
Điều trị rối loạn lipid máu ở bệnh nhân đái tháo đường luôn luôn phải đặt biện pháp thay đổi lối sống lên hàng đầu, phối hợp với statin làm giảm LDL-cholesterol, fibrate làm giảm TG. Nên dùng thuốc hạ lipid máu loại statin cho tất cả bệnh nhân đái đường trên 40 tuổi ngay cả khi các thành phần lipid máu bình trường.
Người gầy cũng có thể mắc máu nhiễm mỡ. Máu nhiễm mỡ thực chất là tình trạng rối loạn lipit máu. Tình trạng rối loạn này có thể xảy ra với bất kỳ ai, tuy nhiên những người béo phì sẽ có nguy cơ mắc bệnh cao hơn người gầy. Người gầy nếu có chế độ ăn uống không lành mạnh: sử dụng rượu bia, hút thuốc, ăn nhiều nội tạng động vật sẽ có khả năng mắc bệnh máu nhiễm mỡ cao.
Theo kinhtedothi
Cha mẹ cần biết: 40% học sinh bị rối loạn lo âu do thi cử
Theo thống kê chưa đầy đủ, có đến 40% số học sinh sinh viên bị ảnh hưởng bởi rối loạn lo âu do thi cử, đặc biệt là trong các kỳ thi quan trọng.
Cho đến nay, không thể không thừa nhận thực tế là có áp lực rất lớn từ các kỳ thi đối với đa số học sinh, sinh viên. Điều này có thể dẫn đến nhiều hệ lụy như sợ học, rối loạn lo âu... Theo thống kê chưa đầy đủ, có đến 40% số học sinh sinh viên bị ảnh hưởng bởi rối loạn lo âu do thi cử, đặc biệt là trong các kỳ thi quan trọng.
Áp lực từ các kỳ thi
Những kỳ thi căng thẳng thường dẫn đến áp lực và lo lắng. Các triệu chứng thể chất như đau bụng, buồn nôn, tăng nhịp tim, đổ mồ hôi quá mức và nhức đầu nặng là rất phổ biến, cũng như các triệu chứng về nhận thức và tình cảm như thiếu tập trung, không có khả năng tổ chức, lo âu, sợ thất bại và mất lòng tự trọng là hoàn toàn bình thường. Nhưng nếu không được điều chỉnh đúng cách, chúng sẽ dẫn đến tâm trạng buồn bã, giận dữ, trầm cảm, lo âu và các cơn hoảng loạn.
Do tâm lý căng thẳng, lo lắng, nhiều học sinh, sinh viên bị suy nhược về cơ thể, biểu hiện ban đầu có thể là choáng váng, đau đầu mất ngủ, lo âu, chán chường, không thiết tha ăn uống, không vệ sinh tắm rửa, những trường hợp nặng hơn thì thường sợ hãi, khóc lóc, hoang tưởng..., thậm chí còn tự tử. Sự kỳ vọng của cha mẹ, thầy cô, bạn bè vô hình đã trở thành áp lực đối với các em. Nhiều năm gần đây, theo thống kê của Bộ Giáo dục và Đào tạo, cứ sau mỗi kỳ thi đại học, cao đẳng đều có khoảng 2-3 vụ học sinh tự tử vì trượt đại học. Bên cạnh đó, con số các bệnh nhân đến khám tâm thần vì sốc, hay trầm cảm do trượt đại học cũng tăng đáng kể. Những vụ học sinh tự tử chỉ vì bị mắng do không chuyên tâm học hành, mải chơi, thi không đạt được kết quả như mong đợi...
Việc ôn thi khiến hiều học sinh mắc chứng rối loạn lo âu (Ảnh minh họa)
Trước và sau kỳ thi THPT rất nhiều bệnh nhân tâm thần là các em học sinh đến khám và điều trị bệnh về tâm thần do gặp phải áp lực thi cử, chủ yếu là các em nữ, vì các em vốn có tinh thần, thể chất nhạy cảm, yếu đuối hơn các em nam.
Muốn phát hiện ra bệnh sớm thì gia đình thường phải có một thời gian dài quan sát con em mình, thông qua các biểu hiện ban đầu. Nếu thấy có nhiều triệu chứng bất thường thì cần đưa con đi khám bác sĩ chuyên khoa ngay để có những chẩn đoán, từ đó can thiệp, điều trị sớm. Tuy nhiên, kiến thức y tế của nhiều bậc phụ huynh hiện nay vẫn còn thiếu, họ không thường xuyên theo dõi tâm sinh lý cũng như ít khi hướng dẫn con cái đi kiểm tra sức khỏe và thường kỳ vọng quá lớn, luôn coi con mình là "ngôi sao sáng". Chính điều này đã vô tình khiến con cái bị bệnh lúc nào không hay.
Rối loạn lo âu là gì?
Rối loạn lo âu là sự sợ hãi quá mức, không có nguyên nhân, do chủ quan của người bệnh và không thể giải thích được do một bệnh tâm thần khác hoặc do một bệnh cơ thể. Rối loạn lo âu là rối loạn mà bệnh nhân không thể kiểm soát, được biểu hiện vững chắc, mạn tính và khuyếch tán dưới dạng kịch phát. Bệnh nhân có rối loạn lo âu, đặc biệt hoảng sợ, thường kèm theo các rối loạn chức năng xã hội và có nguy cơ lạm dụng thuốc cao hơn người bình thường.
Rối loạn lo âu thường có biểu hiện bồn chồn, bứt rứt, khó chịu, đứng ngồi không yên, vã mồ hôi, run tay chân, ngủ kém, cảm giác đau đầu, đau dạ dày, căng đau ở cơ, cảm xúc không ổn định: khóc lóc, lo lắng và phản ứng quá căng thẳng trước những sự việc thường nhật hàng ngày và không thể nào chấm dứt được sự lo lắng đó. Biểu hiện chậm chạp, thường xuyên vắng mặt ở lớp học, ít tham gia vào các hoạt động giao lưu với bạn bè ở lớp. Trẻ lo lắng quá mức để làm thế nào có thể thành công khi tham gia các hoạt động vui chơi, giải trí ở trường, lớp, luôn luôn mong muốn việc mình làm phải hoàn hảo.
Bệnh nhân rối loạn lo âu có nhịp tim nhanh, cảm giác tim mình đập rất nhanh, đập thình thịch hoặc nhịp tim tăng rất nhanh, vã mồ hôi, run rẩy chân tay hoặc rung tay, cảm giác khó thở, thở rất nông hoặc cảm giác ngột ngạt, sắp chết, cảm giác như là có người bóp cổ mình; cảm giác đau ở ngực, không thoải mái vùng ngực; buồn nôn hoặc đau ở vùng bụng, cảm giác như muốn ngất, đi không vững, đầu nhẹ bẫng hoặc như sắp sửa đột quỵ. Người bệnh có thể có cảm giác như là mình không còn ở môi trường mà mình đang sống nữa, họ thường mất kiểm soát bản thân mình và cảm tưởng như là mình sắp bị điên. Bệnh nhân có cảm giác rất sợ chết, có những cảm giác bất thường ví dụ như cảm thấy trong người mình tê cóng... cảm giác rùng mình, hoặc nóng bừng người. Bệnh nhân có kèm theo những biểu hiện buồn chán bi quan về tương lai, những mặc cảm tự ti...
Làm sao điều trị?
Bệnh rối loạn lo âu là một rối loạn về tâm thần diễn biến dai dẳng và khó điều trị dứt điểm. Hiện nay đang áp dụng hai phương pháp là dùng thuốc và trị liệu về hành vi nhận thức.
Vật lý trị liệu bằng hành vi nhận thức
Việc trị liệu bằng các liệu pháp hành vi nhận thức bao gồm nhiều nội dung khác nhau như là giáo dục về tâm lý, hướng dẫn cho bệnh nhân cách xử lý khi có những biểu hiện của lo âu, hoảng sợ như là tập thư giãn, tập hít thở sâu, hoặc có những liệu pháp phơi nhiễm với những yếu tố gây cho bệnh nhân lo âu và từ đó bệnh nhân sẽ dần dần thích nghi được với những hoàn cảnh gây ra tình trạng lo âu làm cho các triệu chứng sẽ hết dần.
Số học sinh, sinh viên đến phòng khám tâm lý trước và sau kỳ thi ngày càng tăng. (Ảnh minh họa)
Để không bỏ lỡ các kỳ thi các chuyên gia khuyên các bạn học sinh, sinh viên nên:
Học vừa đủ, đúng thời gian, thời điểm.
Tìm cách thư giãn trước kỳ thi.
Ăn nhiều trái cây và rau quả, uống nhiều nước, tránh thức ăn ngọt, tập thể dục thường xuyên.
Hãy thử hít thở sâu, thiền, yoga... để đối phó với sự căng thẳng của kỳ thi.
Dành thời gian hàng ngày để thư giãn và tạo sự hài hước, vui vẻ, tìm cho mình sự chia sẻ về cảm xúc, chăm sóc cơ thể bạn về chế độ ăn, ngủ.
Giảm bớt áp lực học tập, tìm sự giúp đỡ của mọi người.
Có thời gian biểu, kế hoạch học tập một cách hợp lý, đặc biệt là giai đoạn cuối của những kỳ thi, học dồn ép nhiều, dễ gây ra nhiều bệnh lý do căng thẳng, mất ngủ.
Không nên sử dụng những chất kích thích như chè, café, rượu, các chất kích thích tâm thần để học vì rất dễ gây hưng phấn dẫn đến bệnh lý tâm thần.
Với các bạn học sinh khi có các biểu hiện trên cần đi khám bác sĩ chuyên khoa tâm thần để được điều trị kịp thời hiệu quả, tránh những ảnh hưởng tiêu cực của căn bệnh này.
Cuối cùng, các bậc cha mẹ nên thông cảm với con em mình, cần từ bỏ những suy nghĩ áp đặt lên chúng. Cha mẹ cũng không nên đánh giá các em dựa trên điểm số trong các kỳ thi, mà nên nhìn vào tổng thể của đứa trẻ, xem xét những mặt giỏi, tiến bộ của con mình. Tuyệt đối, không bao giờ được chỉ trích, so sánh hoặc bêu xấu một đứa trẻ.
Theo giadinhvietnam
Những thủ phạm gây bệnh tử vong chỉ sau AIDS, nhiều người Việt 'chứa trọn bộ' Máu nhiễm mỡ là một trong những căn bệnh phổ biến nhất hiện nay. Nguyên nhân hàng đầu là do chế độ ăn uống không hợp lý, thừa chất, ít vận động, nghiện bia rượu. Bệnh đang có tỉ lệ tử vong rất cao chỉ đứng sau bệnh AIDS. Ảnh minh họa: Internet Mỡ máu cao hay còn gọi là rối loạn lipid,...