Mắc bệnh lạ vì bố mẹ kết hôn cận huyết
Hiện nay, nhiều trẻ em trong các gia đình dân tộc người Mường (sinh sống tại huyện Kim Bôi, tỉnh Hoà Bình) mắc phải các chứng bệnh quái ác.
Chứng bệnh quái ác
Chúng tôi đến gia đình anh Bùi Văn Q và chị Bùi Thị B, ở xóm Cốc, xã Vĩnh Đồng, huyện Kim Bôi, tỉnh Hòa Bình vào buổi trưa. Anh chị sinh được 3 người con nhưng cả 3 đều béo, lùn, ngớ ngẩn và kém thông minh so với những đứa trẻ đồng trang lứa. Cô con gái cả Bùi Thị Tr năm nay đã 25 tuổi nhưng lúc tỉnh lúc mê.
Chị B, mẹ cháu Tr tâm sự: “Nhiều lúc Tr ngẩn ngơ, chỉ biết cười cả ngày, ai trêu gì cũng cười, ai hỏi gì cũng cười chỉ đến khi “tức chí” quá thì chửi tất thảy mọi người. Hai đứa em sau Tr, đó là Bùi Thị Nh (21 tuổi) và Bùi Duy H (11 tuổi) cũng đều mắc chứng bệnh quái lạ, không rõ nguyên nhân.”
Mẹ con chị Bang gánh chịu hậu quả của hôn nhân cận huyết thống
H đã 11 tuổi, không được đi học, chị B nói rằng: “Vì học cũng chẳng vào đầu hoặc có đến lớp cũng chỉ biết cười ngơ ngẩn làm ảnh hưởng tới người khác. Tôi đưa con đến lớp, mải việc, đón muộn, con đi đâu đó, không biết đường về nhà, làm cả gia đình phải mất công đi tìm nên tôi đành cho con ở nhà chơi với mấy đứa trẻ chăn trâu trong xóm”.
Anh Q, chị B cho biết: “Con bị bệnh tật hành hạ như vậy, thế nhưng ăn rất khỏe, ăn có thể bằng ba lần người khác nên người chúng ngày cứ phình to nhưng không thể cao lên, trí thông minh lại kém phát triển nên người lúc nào cũng ngây ngây, ngô ngô khiến bất kì ai chứng kiến cũng cám cảnh thay”.
Cách đây 6 – 7 năm, khi đoàn bác sỹ ở TW về kiểm tra sức khoẻ cho người dân ở xóm, vận động gia đình đưa các con đi kiểm tra, lúc đó gia đình mới biết các con bị bệnh do ảnh hưởng nặng nề của việc kết hôn cận huyết thống với các chứng bệnh như đờ đẫn, thiểu năng trí tuệ, béo phì… Lúc đó, anh mới nhớ tới việc vợ chồng anh thực chất là con chú con bác.
Video đang HOT
Chẳng riêng gì trường hợp anh Q, chị B mà gia đình ông Bùi Văn X và bà Bùi Thị T cũng rơi vào hoàn cảnh tương tự. Ông bà lấy nhau được hơn 20 năm, do sự chỉ định của bố mẹ hai bên, khi mà ông và bà đều có cùng huyết thống (ông là con bác và bà là con dì).
Đến nay, ông bà sinh được tất thảy 5 người con, thì cả 5 cùng mắc các bệnh hiểm nghèo khác nhau. 1 người con đã chết, còn 4 người con khác cũng không hoàn toàn bình thường về trí lực và sức lực. Cả 4 người con hiện luôn đau ốm, khi thời tiết thay đổi, cả 4 đều nằm bẹp giường vì căn bệnh lạ hành hạ.
“Điều đặc biệt, cậu con út sau khi đi khám chữa bệnh, các bác sĩ cho biết cháu bị mắc bệnh huyết tán bẩm sinh rất khó chữa trị. Muốn điều trị cho cháu phải thường xuyên truyền máu, trong khi đó gia đình tôi chỉ có mấy sào ruộng, cái ăn hàng ngày còn khó khăn nói gì tới việc có tiền đưa cháu đi chữa bệnh” – ông X nhọc nhằn kể.
Nguyên nhân do hủ tục
Không riêng gì một hai trường hợp trên, theo cán bộ dân số của huyện Kim Bôi thì: Tình trạng kết hôn cận huyết thông trên địa bàn mấy năm trở lại đây mặc dù đã giảm, không còn xảy ra nữa nhưng hậu quả trước đó để lại rất nặng nề. Nhiều trường hợp cận huyết lấy nhau và đẻ ra những đứa con mang trong mình mầm bệnh nguy hiểm tới tính mạng con người.
Ngay tại làng Sào, xã Hạ Bì (huyện Kim Bôi) hiện có một trường hợp con anh lấy con em đẻ ra những đứa con đều bị thiểu năng trí tuệ, chậm phát triển, người luôn trong trạng thái đần độn, béo phì. Thậm chí có cháu bị mắc bệnh về da, với những lớp vẩy như vẩy cá sấu, mũi tẹt, mặt bị biến dạng có cháu bị thiếu máu dẫn đến xương giòn (xương thuỷ tinh) nên hễ động chạm vào là gẫy xương rất khó chữa trị.
Lý giải về tình trạng hôn nhân cận huyết thống, vị cán bộ dân số cho biết, xuất phát từ những phong tục, tập quán, đặc biệt là những hủ tục lạc hậu của một số bộ phận người dân tộc thiểu số khi trong làng có những nhà lang (gia đình giàu có – PV) có con cái đến tuổi lấy vợ lấy chồng đều ép hoặc mai mối để con em của mình hay trong cùng dòng họ lấy nhau, với mục đích có thể giữ được của cải. Và, những của cải này sẽ vĩnh viễn không bị người ngoài lấy, mang đi mất.
Theo PGS.TS Trần Đức Phấn, Trưởng bộ môn Y sinh học Di truyền, Đại học Y Hà Nội thì những đứa trẻ được sinh ra từ những ông bố bà mẹ có hôn nhân cận huyết thống có nguy cơ mắc các bệnh về máu cao gấp hàng chục lần so với những trẻ bình thường khác.
Điển hình của các bệnh máu này là Thalassemia (tan máu di truyền), phenylketon niệu (rối loạn chuyển hóa phenylalanin) và các bệnh rối loạn chuyển hoá khác. Nguyên nhân gây những bệnh này là do những người trong cùng dòng họ có khả năng mang gen bệnh di truyền gen lặn giống nhau nhưng ở trạng thái dị hợp nên bản thân họ không biết mìnhmang gen bệnh, khi kết hôn cận huyết thống sẽ xảy ra hiện tượng kết hợp các gens bệnh của bố mẹ và gây bệnh cho con.
Đối với bệnh Hemophilia thì người mẹ mang gens bệnh chỉ truyền cho con trai và con gái thường mang gens lặn. Người bệnh có các biểu hiện dễ nhận biết nhất là dễ bị chảy máu với biểu hiện hay bị thâm tím ở các khớp, khi bị chảy máu thì máu chảy lâu hơn bình thường. Cả hai bệnh lý về máu này đều đòi hỏi người bệnh phải điều trị suốt đời để có cuộc sống bình thường…
Ngoài những bệnh lý về máu, hôn nhân cận huyết thống còn gây ra một số bệnh lý khác như phenylketon niệu, galactose máu (tăng galactose trong máu gây nôn, phát triển kém), bạch tạng, câm điếc… làm suy giảm chất lượng dân số, giống nòi và là gánh nặng cho gia đình, dòng họ và cả xã hội.
Theo VNE
Đi tìm bí kíp nấu rượu cần cổ truyền của người Mường
Không chỉ mang nét văn hóa cổ truyền của người Mường, "báu vật" rượu cần còn thể hiện tài năng, sự tỉ mỉ của những người con gái Mường.
Rượu cần từ lâu đã đi vào đời sống sinh hoạt của người Việt như một nét văn hóa đặc sắc dân tộc. Tùy theo vùng miền mà loại rượu này có các công thức làm khác nhau. Tuy nhiên, nổi tiếng nhất và đậm nét văn hóa nhất chính là rượu cần của người Mường ở Hòa Bình. Tuy nhiên theo biến thiên thời gian và mục đích thương mại hóa mà công thức làm rượu cần nơi đây đã không còn giữ được nguyên vẹn như những ngày xưa nữa. Hiện nay phải tìm tới những bản làng xa xôi của người Mường, nơi mà người dân làm rượu chủ yếu để uống chứ chưa vì mục đích kinh doanh thì mới có thể tìm được những vò rượu cần được làm theo lối cổ.
Bà Ngoan đang thử một vò rượu cần đã ủ được 3 tháng
Lên rừng truy tìm "linh hồn" của "báu vật"
Vào một ngày giữa tháng tám, chúng tôi ngược Hà Nội về Hòa Bình - cái nôi văn hóa của người Mường để tìm hiểu về công thức làm rượu cần cổ của người dân tộc Mường. Theo quan sát của PV, dọc theo Quốc lộ 6 qua các huyện Lương Sơn, Kỳ Sơn có rất nhiều các cơ sở sản xuất rượu cần. Tuy nhiên, các vò rượu bày bán la liệt nhưng hầu hết ở đây chủ yếu là sản xuất theo dây chuyền công nghệ, rất khó để tìm được một nghệ nhân nắm bắt được công thức nấu rượu từ ngày xa xưa. May mắn đến với chúng tôi khi tìm được gia đình bà Bùi Thị Ngoan, một gia đình có truyền thống làm rượu cần lâu đời ở xóm Đóng (xã Phong Phú, huyện Tân Lạc (cách TP. Hòa Bình). Ngay từ đầu xã Phong Phú, khi hỏi về rượu cần, chúng tôi đã được người dân tận tình chỉ tới nhà bà Ngoan. Họ nói rằng: "Ở đây chỉ có rượu nhà bà Ngoan là ngon nhất. Tuy mỗi năm bà chỉ làm một vài vò và không quảng cáo nhưng bà con tự truyền tai nhau, khách gần xa tìm đến mua nhiều lắm".
Biết chúng tôi muốn tìm hiểu về công thức nấu rượu cần gia truyền của gia đình mình, bà Ngoan khiêm tốn: "Cũng chẳng có bí quyết gì riêng đâu. Tôi vẫn làm theo các công thức mà mẹ chồng đã chỉ dạy, không thay đổi hay thêm bớt thứ gia vị gì cả". Bà Ngoan sinh năm 1965, đã 20 năm trực tiếp làm rượu cần. Công thức đồ rượu cần của bà được mẹ chồng truyền lại từ khi mới về làm dâu. Theo truyền thống của người Mường thì trong các gia đình gia truyền làm rượu cần, công thức làm rượu sẽ được truyền lại cho những người con dâu để lưu giữ cho các đời sau. Những người đàn ông trong nhà thì hầu như không hề biết công thức cũng như không tham gia vào việc làm rượu.
Với kinh nghiệm làm rượu cần 20 năm, bà Ngoan cho biết, thứ quan trọng nhất quyết định rượu ngon hay không chính là men rượu. Điều này với rượu cần thì càng quan trọng hơn. Men rượu giống như linh hồn của vò rượu vậy. Thứ men ngon nhất từ trước tới nay mà bà biết được đó chính là men lá, một loại men chế biến từ lá cây trên rừng. Loại cây này được người Mường gọi là cây "trơ trẳng". Bà Ngoan cũng không biết dịch ra tiếng Kinh là gì nữa. Đây là loại men này rượu rất thơm, ngọt mà lại tốt cho sức khỏe. Chúng tôi nhìn qua thì thấy loại cây làm men này giống như cây Xạ đen có tác dụng điều trị ung thư - một loại cây cũng phổ biến ở các vùng núi cao Hòa Bình. Không chỉ là nguyên liệu làm men rượu mà cây "trơ trẳng" khi phơi khô dùng để đun nước uống cũng rất mát và thơm.
Bà Ngoan cho biết, trước đây, các gia đình người Mường làm rượu cần thường lên rừng tìm lá cây "trơ trẳng" và vỏ cây gỗ mun để tự chế tạo lên men rượu. Lâu dần, có người chuyên làm loại men này bán, người làm rượu chỉ cần mua về dùng luôn. "Loại cây trơ trẳng thường mọc trên những khu rừng núi cao như trên đỉnh Lũng Vân, rất khó tìm. Vì vậy sau khi mẹ chồng già yếu không thể làm rượu được nữa nên bà Ngoan phải mua lại men lá từ một bà cụ chuyên làm men ở dưới chân núi Lũng Vân. Được biết, bà cụ này được gọi là "phù thủy" của men lá. "Lão phù thủy" này là một trong những người làm là chuẩn nhất ở mo Mường. Bà Ngoan thường đi mua men một lần rồi để dùng cả năm vì men lá để được mấy năm liền chứ không như loại men bột người ta bán ở chợ chỉ để được vài tháng.
Cây "trơ trẳng" - loại cây làm ra thứ men lá thơm ngon, có lợi cho sức khỏe của người Mường
Sự tinh tế, tỉ mỉ của người phụ nữ
Để có những vò rượu cần chất lượng phải trải qua rất nhiều công đoạn. Những công đoạn ấy chỉ những người phụ nữ chịu thương chịu khó, cẩn thận, tỉ mỉ mới làm được. Với các công đoạn: Ngâm gạo, rửa trấu, đồ rượu, ủ men, cho vào vò... tốn thời gian, đòi hỏi sự kiên nhẫn. Làm rượu cần trở thành một công việc khó ưa đối với cánh đàn ông. Chính vì vậy mà người phụ nữ Mường đã mặc nhiên trở thành những người cầm giữ công thức nấu rượu cần truyền thống của gia đình. Nguyên liệu đồ rượu cần gồm gạo nếp, trấu và men rượu. Gạo nếp được ngâm qua một đêm để mềm, trấu thì phải rửa thật sạch, phơi khô sau đó trộn đều tất cả gạo, trấu với nhau cho vào đồ (đun lên). Sau khi đồ chín gạo thành cơm thì cho ra để nguội rồi mới trộn men vào và tiếp tục ủ một đêm để lên men (để men rượu ngấm hết vào cơm, trấu).
Bà Ngoan cho biết, khi lên men thành công tức là đã đến công đoạn cuối cùng của việc làm rượu cần: Cho vào vò ủ rượu chờ đến lúc uống được. Vào mùa nóng thì chỉ khoảng 20 ngày là chất rượu đã ngọt nhưng mùa lạnh thì phải hơn một tháng mới có thể dùng được. Nói về các công đoạn làm rượu cần, bà Ngoan chia sẻ: "Việc làm rượu cần thì không có gì nặng nhọc, vất vả lắm nhưng các công đoạn đều đòi hỏi phải rất cẩn thận, tỉ mỉ. Ví dụ như rửa trấu thì phải rửa thật sạch. Ủ gạo, trấu cho lên men cũng phải tính toán sao cho nhiệt độ đủ ấm không thì sẽ hỏng ngay. Vào mùa đông, tôi thường phải trải một chiếc chăn bông xuống dưới và đắp một chiếc chăn khác lên trên để đủ nhiệt độ lên men. Nếu nhiệt độ không đủ ấm thì sẽ không lên men được và toàn bộ các công đoạn trước coi như bỏ đi hết. Có cố làm tiếp thì rượu cũng chua, nhạt, không uống được".
Theo tìm hiểu của chúng tôi, trong mo Mường, người ta cho rằng rượu cần ngon hay nhạt là do tay người trộn men rượu và người vót cần. Người trộn men phải làm sao cho men thật đều, ngấm vào từng hạt cơm, hạt trấu. Có như thế rượu mới dùng được lâu. Theo bà Ngoan, muốn có những bình rượu cần thơm ngon, uống vào thấy êm êm và có vị ngọt thì khâu ủ rượu cũng vô cùng quan trọng. Vò ủ phải được đậy kín để tránh không khí làm hỏng rượu. Rượu càng để nhiều ngày, càng "già" thì uống càng bốc, càng ngon. Nếu để lâu trong vò cũng tự ra nước rượu, rượu này nguyên chất, uống vào rất ngọt nhưng lại rất dễ say vì đây chính là nước rượu cốt.
Tinh hoa của người Mường Theo một số vị cao niên trong mo Mường, khi uống, ta bật nắp bịt ra đổ nước vào ngâm một lúc cho ngấm rồi cắm cần vào. Những vò rượu cần chất lượng là phải đổ nhiều lần nước mà vẫn giữ được vị ngon ngọt, thơm nồng. Nếu có thể dùng loại nước suối trong vắt lấy từ các khe sâu trong núi để chế rượu thì quả là rất tuyệt vời. Nước suối mát lạnh ngấm vào men tạo ra thứ rượu có mùi vị thật đặc biệt. Cầm cần vít xuống uống một hơi, chúng tôi cảm nhận được vị ngọt ngọt, cay cay tan nhanh nơi đầu lưỡi. Hương rượu cần say nồng ngất ngây thấm vào da thịt, chúng tôi thấm thía hơn một nét văn hóa đặc sắc của người Mường và cảm phục hơn những bàn tay khéo léo kinh nghiệm của những người phụ nữ nơi đây. Theo VNN
Thảm án từ những mối tình tay 3 Vì ghen tuông, nông nổi mà các vụ thảm án xảy ra, người thì thiệt mạng, kẻ đứng trước vành móng ngựa. Tình yêu luôn là thứ tình cảm rất đáng trân trọng nhưng khi vướng vào những mối tình tay 3 thì cũng là lúc kéo theo nhiều rắc rối, hệ lụy để rồi các vụ án đau lòng xảy ra. Chỉ...