M&A ngân hàng ngóng chờ tín hiệu mới
Khối ngoại rất quan tâm tới quá trình tái cơ cấu các ngân hàng nội. Năm 2021, thị trường hứa hẹn thêm nhiều thương vụ M&A (mua bán – sáp nhập) mới trong lĩnh vực tài chính khi các ngân hàng đang có động thái điều chỉnh tăng hạn mức sở hữu vốn dành cho nhà đầu tư nước ngoài (NĐT NN).
Nhiều thương vụ ngàn tỷ vẫn trong quá trình đàm phán
Ghi nhận thực tế trên thị trường Việt Nam, các thương vụ M&A đáng chú ý trong lĩnh vực ngân hàng của giai đoạn 2019 – 2020 gồm: Vietcombank với Mizuho Bank Ltd và BIDV với Keb Hana Bank (năm 2019). OCB hoàn tất bán 15% cổ phần cho đối tác Aozora (Nhật Bản). Thương vụ MB phát hành riêng lẻ hơn 64,3 triệu cổ phiếu cho 8 NĐT NN như: KIM Vietnam Growth Equity, ITMC Worldwide Vietnam RSP Balance Fund, Fiera Capital…, với giá bán 27.000 đồng/CP và thu ròng 1.720 tỷ đồng (năm 2020).
Dưới sức ảnh hưởng của đại dịch Covid-19, thị trường M&A năm 2020 có vẻ trầm lắng hơn. Chỉ 2 thương vụ chào bán cổ phần cho đối tác ngoại thành công trong 11 tháng năm 2020, song gần chục thương vụ đang đàm phán cho thấy, hoạt động M&A ngân hàng vẫn nhộn nhịp thời gian tới.
Thương vụ M&A Vietcombank với Mizuho Bank Ltd là một bước tiến mới trong hoạt động tại Vietcombank. Ảnh: Trâm Anh
Dù vẫn đang “treo” thương vụ M&A với PG Bank, song HDBank vẫn có thương vụ chào bán trái phiếu chuyển đổi vào cuối tháng 9/2020 với định chế tài chính DEG của Đức. Do đó, không loại trừ khả năng DEG thành cổ đông chiến lược của HDBank trong tương lai. Bà Nguyễn Thị Phương Thảo – Phó Chủ tịch Thường trực Ngân hàng HDBank cho hay: Với thương vụ này, HDBank, thành viên của Tập đoàn Sovico đã thiết lập mối quan hệ chiến lược với DEG, đồng thời mở cửa cho HDBank và Tập đoàn Sovico hội nhập sâu hơn vào chuỗi giá trị toàn cầu.
Ngoài ra, thị trường vẫn còn nhiều thương vụ M&A đang đàm phán, tích cực xúc tiến để có thể thành công trong thời gian tới. Vietcombank đang lên phương án phát hành riêng lẻ 6,5% cổ phần cho đối tác nước ngoài để tăng vốn, thời gian chào bán là năm 2020 – 2021. Nam A Bank cũng đang có kế hoạch chào bán cổ phiếu riêng lẻ 143 triệu cổ phần cho NĐT NN…
Tại Đại hội cổ đông thường niên năm 2020 diễn ra cuối tháng 4 vừa qua, lãnh đạo nhiều ngân hàng cũng cho biết đang đàm phán hoặc đang trong quá trình tìm kiếm đối tác như trường hợp của NCB, LienVietPostBank, MSB, VPBank, SHB… Trong đó, 3 ngân hàng là MSB, VPBank và SHB đang xúc tiến bán công ty tài chính tiêu dùng trực thuộc là FCCOM, FE Credit và SHB Finance. Cùng với đó, VietinBank sẽ được Chính phủ thí điểm nới room, Agribank đang thực hiện các bước cuối cùng của quá trình cổ phần hóa nên cũng mở ra cơ hội tạo nên thương vụ M&A “khủng” như những “người anh em” NHTMCP Nhà nước trước đó.
Nóng lòng tìm cổ đông chiến lược
Video đang HOT
Sau mỗi thương vụ M&A giá trị cộng hưởng mang lại sẽ rất cao. Nguồn tiền từ NĐT chiến lược nước ngoài không chỉ giúp các ngân hàng trong nước giải cơn khát vốn mà còn mang đến kỳ vọng chia sẻ rủi ro, tăng cường tính minh bạch về tài chính. Hai bên có thể khai thác được những lợi thế lẫn nhau, tăng thị phần, tận dụng quan hệ khách hàng, khả năng bán chéo sản phẩm, dịch vụ, đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh và tạo ra các cơ hội kinh doanh mới. Ngoài ra, thông qua việc M&A, ngân hàng mới có thể tận dụng công nghệ hay kỹ thuật của nhau để tạo lợi thế cạnh tranh. Tuy nhiên, xu thế này cũng đang khá nghẽn khi gặp rào cản về tỷ lệ sở hữu – room (tối đa 30%, riêng tỷ lệ sở hữu cổ phần của một NĐT chiến lược nước ngoài không được vượt quá 20% vốn điều lệ). Bởi vậy, các ngân hàng đang tích cực có động thái điều chỉnh hạn mức room chờ cơ hội đón dòng vốn này.
Trung tâm Lưu ký chứng khoán Việt Nam (VSD) vừa thực hiện điều chỉnh tỷ lệ sở hữu của NĐT NN của MB từ 22,9908% lên 23,0224% từ ngày 9/11. Việc điều chỉnh được thực hiện sau khi MB đã phát hành gần 362 triệu cổ phiếu để trả cổ tức năm 2019 (tương đương tỷ lệ 15%), tăng vốn điều lệ lên mức gần 27.988 tỷ đồng.
VPBank cũng quyết định dành “room” cho khối ngoại khi giảm tỷ lệ sở hữu từ mức 22,77% xuống còn 15% trong bối cảnh dòng vốn toàn cầu bị biến động bởi làn sóng Covid-19 lần đầu tiên khiến nhiều NĐT thoái vốn. Room ngoại còn lại của VPBank dự kiến dùng để chào bán cho NĐT khác muốn đầu tư khi đại dịch được kiểm soát.
VietCapital Bank sẽ xin ý kiến Đại hội đồng cổ đông ủy quyền HĐQT quyết định tỷ lệ sở hữu của cổ đông nước ngoài theo quy định hiện hành (tỷ lệ tối đa là 30%); thông qua việc đưa chứng khoán chào bán ra công chúng do ngân hàng phát hành giao dịch trên thị trường có tổ chức thời hạn một năm kể từ ngày kết thúc đợt chào bán. Ông Trần Ngọc Tâm – Tổng Giám đốc Nam A Bank cho biết, kế hoạch bán cổ phần cho NĐT NN nằm trong phương án tăng vốn điều lệ lên gần 7.000 tỷ đồng. Nam A Bank đang trong quá trình đàm phán với đối tác ngoại.
Theo đánh giá của Công ty Chứng khoán Đầu tư Việt Nam (IVS), VIB, VPBank, Techcombank, ACB là những ứng viên tiềm năng có thể được xem xét nới room ngoại theo đề xuất của ngân hàng châu Âu nhìn từ Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA). Hiện, ACB đã cạn room ngoại; VIB chốt room ngoại chỉ 20,5%; MB nâng room từ 20,9% lên gần 23% trong tháng 3/2020.
Gỡ rào cản chính sách
Nhận định chung về thị trường M&A lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam, ông Jochen Steinbuch, Giám đốc DEG Khu vực châu Á – Thái Bình Dương cho hay, Việt Nam là điểm sáng cho các NĐT NN khi nền kinh tế ít bị ảnh hưởng bởi Covid-19. Nhờ dân số trẻ với tầng lớp trung lưu đang tiếp tục mở rộng, nhu cầu đối với các dịch vụ tài chính ngân hàng ở mức cao. Đồng quan điểm, ông Vũ Lê Trung, Luật sư thành viên Công ty Luật VINAF cho biết, hiện, NHNN đang có chính sách khuyến khích M&A thay vì thành lập ngân hàng mới, đây là điểm thuận lợi cho hoạt động M&A.
Trên thị trường chứng khoán, cổ phiếu ngành ngân hàng nằm trong nhóm hồi phục nhanh nhất phần nào phản ánh sự quan tâm nhất định của các NĐT tài chính đối với nhóm ngành này. Còn từ phía các NĐT trong ngành, lĩnh vực ngân hàng của Việt Nam cũng có thêm sức hấp dẫn ở giai đoạn hiện nay, khi Việt Nam trở thành điểm đến đáng chú ý trong xu hướng dịch chuyển vốn đầu tư.
Theo TS Nguyễn Trí Hiếu, nhiều NĐT Nhật Bản, Hàn Quốc, Singapore… vẫn rất quan tâm đến các ngân hàng Việt Nam. Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam – EU (EVFTA) có hiệu lực từ đầu tháng 8/2020, một điều khoản đặc biệt đã cho phép các ngân hàng châu Âu nâng mức trần giới hạn sở hữu của NĐT NN từ 30% lên 49% đối với 2 ngân hàng Việt Nam, trừ nhóm 4 ngân hàng TMCP mà Nhà nước đang nắm cổ phần chi phối. Đây cũng là cơ hội để các ngân hàng châu Âu mua thêm cổ phần của nhóm ngân hàng hiện đã cạn room.
Theo các chuyên gia, ba bộ luật Đầu tư, luật Chứng khoán và luật DN sửa đổi đều cùng có hiệu lực từ đầu năm 2021 với nhiều cải cách dự báo sẽ tác động tích cực đến hoạt động M&A tại Việt Nam. Tuy nhiên, riêng với lĩnh vực ngân hàng đặc thù, để NĐT NN mạnh dạn bỏ vốn, Chính phủ cần có biện pháp đột phá trong nới room vốn ngoại. Ngoài ra, hiện nay các NĐT nước ngoài rất quan tâm đến các món nợ xấu. Để giúp bên mua và bán hoàn tất được giao dịch thì vai trò của ngân hàng rất quan trọng, ví dụ như: ngân hàng có tham gia vào quy trình xử lý nợ hay không, quy trình của ngân hàng có những điểm thông thoáng nhất định để hoàn tất được giao dịch hay không. “Chúng tôi đã tiếp nhiều NĐT là các tập đoàn lớn có quan tâm đến các ngân hàng, công ty tài chính đang có nhu cầu bán vốn ở Việt Nam. Tuy nhiên họ vẫn quan ngại về hành lang pháp lý”, Luật sư Vũ Lê Trung nói, đồng thời cho rằng trong thời gian tới, nếu có sự tháo gỡ về mặt chính sách thì các hoạt động M&A lĩnh vực tài chính – ngân hàng sẽ khởi sắc hơn.
“Đối với NHTM yếu kém, việc bán cổ phần cho NĐT NN là cần thiết nhằm xử lý các khó khăn. Tuy nhiên, theo quy định hiện hành, giá bán không được thấp hơn mức giá tổ chức tư vấn định giá, không được thấp hơn giá thị trường, phải được kiểm toán nếu cần. Từ thời điểm bắt đầu đàm phán cho đến thời điểm chốt giá thì giá thị trường có thể tăng gấp rưỡi, gấp đôi, làm phá vỡ kế hoạch tài chính của đối tác nước ngoài, dẫn đến khó thương lượng. Do đó, quy định trên cần sửa đổi phù hợp với thông lệ quốc tế để thu hút khối ngoại. ” – Chuyên gia kinh tế trưởng BIDV – TS Cấn Văn Lực
Tín dụng tiêu dùng có còn là "gà đẻ trứng vàng"?
Các sản phẩm cho vay tiêu dùng thường nhắm tới phân khúc khách hàng có thu nhập thấp, nhưng cũng là những người dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế. Bởi vậy, không ít người nghi ngờ về khả năng đối mặt với nợ xấu của các công ty tài chính hậu Covid-19 và liệu tín dụng tiêu dùng có còn là lĩnh vực "gà đẻ trứng vàng" như những năm vừa qua hay không.
Đầu tháng 4, Hội đồng thành viên Công ty tài chính TNHH MTV Ngân hàng Sài Gòn - Hà Nội (SHBFC) bất ngờ ra Nghị quyết trình HĐQT ngân hàng mẹ SHB đề xuất thông qua ĐHĐCĐ về việc thoái vốn tại SHBFC cho đối tác chiến lược nước ngoài.
Chưa rõ SHB sẽ thoái vốn một phần hay toàn bộ nhưng thông tin này gây không ít bất ngờ, bởi trước đó, SHB đã có nhiều kế hoạch để phát triển mảng tín dụng tiêu dùng thông qua mở rộng mạng lưới công ty con này.
Trong khi đó, gần đây, Moody's cũng đã xem xét về việc hạ tín nhiệm 3 công ty tài chính lớn tại Việt Nam là FE Credit, Home Credit và SHB Finance. Theo đánh giá của Moody's, cú sốc kinh tế do Covid-19 gây ra có thể tác động tiêu cực đến chất lượng tài sản, lợi nhuận và thanh khoản của các công ty tài chính này.
Những công ty tài chính tiêu dùng có các sản phẩm cho vay không đảm bảo và nhắm tới phân khúc khách hàng có thu nhập thấp, nhưng cũng là những người dễ bị tổn thương trước các cú sốc kinh tế. Sự gia tăng thất nghiệp, dự kiến sẽ làm suy yếu khả năng trả nợ của người vay trong phân khúc này, do nguồn thu nhập không ổn định và hạn chế.
Bởi vậy, không ít người nghi ngờ về khả năng đối mặt khó khăn bởi Covid-19 của các công ty tài chính và liệu tín dụng tiêu dùng có còn là lĩnh vực "gà đẻ trứng vàng" như những năm vừa qua hay không.
Bình luận về việc có công ty tài chính muốn thoái vốn, TS. Cấn Văn Lực cho rằng, không quá quan ngại về điều đó. Nguyên nhân thoái vốn có thể là do ngân hàng thay đổi chiến lược kinh doanh, muốn tập trung vào lĩnh vực chính của mình. Hoặc họ muốn tái cấu trúc, gạt bỏ những rủi ro mà họ không chấp nhận được bởi lĩnh vực cho vay tiêu dùng cũng có thể nói là khá rủi ro, và gắn chặt với chu kỳ kinh tế. Và khi những ngân hàng này có cơ hội bán, có người mua với giá hợp lý thì thoái vốn có lời trong thời điểm cần tiền mặt, là đúng lúc. Bên cạnh đó, có thể họ bán, nhưng vẫn tham gia một phần dưới dạng cổ đông, hợp tác, liên kết.
Trong khi đó, LS. Trương Thanh Đức cũng cho rằng đây là chuyện bình thường, khi doanh nghiệp không làm tốt được hay không muốn làm nữa thì có quyền bán, giải thể theo quy định của pháp luật. Điều quan trọng là pháp nhân mới mua là ai, có tình hình tài chính như thế nào, có minh bạch không, có kinh doanh cho vay chuyên nghiệp không, tránh ẩn chứa sự thâu tóm, lợi dụng sân sau...
Ông Trương Thanh Đức cũng cho rằng, năm nay các công ty tài chính tiêu dùng sẽ gặp khó, nhưng những năm tới vẫn còn nhiều dư địa phát triển. "Năm nay dịch bệnh khó khăn, nhưng vài năm tới thì vẫn là con gà đẻ nhiều trứng vàng, trứng rất to", ông nói.
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng, công ty tài chính cũng như các doanh nghiệp khác cần có sự thay đổi hậu Covid-19.
Ông Cấn Văn Lực cho rằng, sau Covid, các doanh nghiệp và công ty tài chính đã đến lúc rà soát lại chiến lược kinh doanh của mình. Tư duy hiện tại đã rất khác vì nhiều xu hướng mới, thị hiếu mới xuất hiện và phải có những sản phẩm mới may đo phù hợp.
Các công ty tài chính cũng phải quan tâm hơn đến phát triển nền tảng công nghệ. Nhiều công ty hiện vẫn còn quản lý thủ công, tốn kém, dẫn đến buộc phải đẩy lãi suất cao lên. Bên cho vay cần cân đối giữa rủi ro và lãi suất, không mặc định tín dụng tiêu dùng thì lãi suất phải cao. Nếu quản lý hiệu quả, giảm được các gánh nặng trong vận hành thì vẫn đưa ra được mức lãi suất hợp lý cho người dân, tăng mối quan hệ bền vững với người dân.
Vị chuyên gia này cho rằng lĩnh vực này vẫn có nhiều tiềm năng nhưng khả năng thu hút đầu tư còn phụ thuộc vào quan điểm của Nhà nước. Ông Cấn Văn Lực cho rằng Nhà nước nên cởi mở hơn với các mô hình tín dụng mới nhưng có kiểm soát. Với kinh tế số, các mô hình kinh doanh mới, bao gồm cả tín dụng số cũng phải như vậy.
"Một là chúng ta cần có khung pháp lý để kiểm soát ngay từ đầu. Hai là để nó tự do phát triển một thời gian sau đó sẽ điều chỉnh vào khuôn khổ. Hiện nay, Việt Nam đang áp dụng hình thức số 1, cho hoạt động thí điểm trong khuôn khổ khung pháp lý. Cái đó là cách thức tiếp cận cởi mở và phù hợp", vị chuyên gia cho biết. Ông cũng đồng thời cũng nhấn mạnh "Chúng ta đang trong một xu thế quan trọng: Kinh tế số, các mô hình kinh doanh số có đà phát triển cực mạnh sau đại dịch. Chúng ta không thể đi chệch thời đại".
Moody's công bố kết quả định hạng tín nhiệm của BIDV Ngoài định hạng tiền gửi ngoại tệ của BIDV tăng thì các loại định hạng khác đều giữ nguyên ở mức cũ. Năm 2020 là năm thứ 15 liên tiếp Ngân hàng TMCP Đầu tư và Phát triển Việt Nam (BIDV) mời tổ chức Moody's thực hiện định hạng tín nhiệm. Điều này góp phần khẳng định cam kết về việc minh bạch...