Ly kỳ chuyện săn mật của loài ong hung dữ nơi rừng Tây Yên Tử
Rừng Khe Rỗ, xã An Lạc, huyện Sơn Động (Bắc Giang) mùa này có muôn loài hoa dại đua hương, khoe sắc. Đàn ong khoái cũng theo đó mà kéo nhau về xây tổ và luyện mật. Đồng bào dân tộc Tày, Nùng theo hướng bay của ong khoái đi săn mật ngọt. Để lấy được sản vật có giá trị cao này, những người thợ ong với bản lĩnh, kinh nghiệm dù dày dạn cũng gặp không ít gian nan, nguy hiểm.
Chúng tôi theo chân thợ săn ong khoái rong ruổi hết ghềnh cao, suối sâu trong rừng xanh Khe Rỗ. Ong khoái là loài hoang dã sống ở rừng núi, kích thước cơ thể lớn hơn ong nuôi và được đánh giá là loài hung dữ nhất trong tất cả các loại ong cho mật. Dù đã lên lịch trước nhiều ngày, thường xuyên theo dõi dự báo thời tiết song “người tính không bằng trời tính”.
Cứ đinh ninh nắng nóng kéo dài, khô hạn cả tháng, Chủ nhiệm HTX Du lịch cộng đồng Khe Rỗ Vũ Ngọc Huân tự tin hẹn chúng tôi lên chứng kiến hành trình săn ong rừng điêu luyện của đồng bào, nào ngờ đêm trước Khe Rỗ đón trận mưa lớn. Sáng hôm sau, dù nắng to trở lại nhưng thợ “sát ong” nhất bản Nà Ó là anh Cam Văn Nghĩa (SN 1969) vẫn đắn đo e rằng trận mưa làm ong no nước sẽ không rời khỏi tổ…
Người thợ ong thường men theo những con suối để đi tìm ong khoái.
Mưu sinh giữa rừng già
Tuy vậy, chiều lòng khách vượt gần trăm cây số lên đây và cũng muốn thể hiện tài nghệ của mình, anh Nghĩa vẫn hăng hái vào rừng tìm ong. Lấy con dao, mấy hộp sữa và túi bánh nhét vào chiếc sung (túi đan thủ công của đồng bào), người đàn ông dân tộc Tày ra sau vườn bẻ thêm chùm vải thiều mang theo rồi thúc giục tôi khẩn trương vì ngoài 8 giờ là lúc ong thường đi lấy nước.
Tôi thắc mắc sao phải đợi lúc ong lấy nước? Anh Nghĩa tủm tỉm bảo: “Cứ đi đã, rồi chú khắc hiểu. Mùa này cứ có nắng là bọn anh đi rừng, với cánh thợ ong thời gian ở rừng còn nhiều hơn ở nhà, hôm nào không đi đôi chân thừa thãi lắm, giờ thành người rừng rồi”.
Chiếc xe máy “chuyên dụng” của anh Nghĩa đèo tôi vượt 2km đường rừng, thi thoảng gầm xe va kịch vào đá nhảy chồm lên phía trước. Vòng vèo mãi rồi cũng đến Vũng Tròn, để xe ngay lối mòn, chúng tôi đi bộ. Cứ men theo dòng chảy Khe Rỗ về phía thượng nguồn, dòng suối mát lạnh chảy xiết hơn vì trận mưa đêm trước.
Nghe đâu để đi hết con suối này mất tới hai ngày trời, những lúc như thế thợ ong phải nấu cơm, mắc võng ngủ qua đêm trong rừng. Vừa đi, anh Nghĩa vừa ngó nghiêng tìm ong ở các khe nước, vũng rạch. Rừng sâu không có sóng điện thoại, thi thoảng lại vang lên những tiếng hú của nhóm thợ đi rừng báo hiệu cho nhau và anh Nghĩa cũng đáp trả bằng những ám hiệu ấy.
Nắng mỗi lúc một gay gắt hơn, đi được đoạn dài, người ai cũng ướt sũng mồ hôi mà bước chân dân bản địa cứ thoăn thoắt trèo qua những tảng đá mẹ, đá cha to như con voi, con bò trong khi tôi cứ lò dò từng bước phía sau vì những tảng đá lớn bám rêu trơn tuột.
Video đang HOT
Khoảng cách giữa tôi và anh mỗi lúc một xa, thi thoảng anh phải ngoái lại đợi tôi và nói: “Với kinh nghiệm gần 10 năm đi rừng như anh, chỉ cần nhìn thấy ong lấy nước là kiểu gì cũng tìm ra “thủ phủ” của chúng. Dù vậy, nghề săn ong khoái lắm may rủi, hôm nào “số đỏ” bắt được vài tổ thì việc kiếm bạc triệu không phải là khó nhưng cũng có khi đi mỏi chân không được gì. Đó là chưa kể đàn ong rừng rất hung dữ, không may bị chúng đốt thì nguy, đôi khi gặp rắn rết, mưa lũ bất ngờ. Hay lúc trèo lên đỉnh ngọn cây hun khói xua ong lấy mật, chỉ cần sểnh chân là không có đường về”.
Qua bụi cây rậm rạp, thợ ong chỉ cho tôi biết vị trí cất giấu xoong nồi của mình, đi đến đâu các anh cũng mang theo chúng, hễ đói là bắc bếp thổi cơm, có khi cầm theo tấm lưới bắt cua, cá suối hoặc mò ốc, bắt ếch là mấy anh em tha hồ nhắm đặc sản. Cũng có khi đi xa, không mang theo xoong nồi được thì chặt cây giang, cây nứa nấu cơm lam giữa rừng. Tôi nể phục khả năng đi rừng của anh Nghĩa, còn anh lại dí dỏm: “Sung sướng gì đâu, mưa nắng người ta ở nhà nghỉ ngơi còn mình cứ lang thang như mèo hoang trong rừng sâu núi thẳm. Cánh thợ săn ong ở An Lạc vẫn nói vui với nhau rằng “trên rừng con ong ở, dưới bản có mấy thằng dở đi tìm ong”. Ngẫm chẳng sai, suốt ngày vào rừng ngó nghiêng, chui luồn như khỉ, lếch thếch chẳng giống ai”. Biết anh nói đùa vậy thôi bởi thực ra nghề săn ong khoái tuy vất vả nhưng cũng mang lại thu nhập cho nhiều hộ trong xã.
Thành quả sau một chuyến đi rừng của anh Cam Văn Nghĩa.
Quà tặng của núi rừng
Suốt chặng đường dài, câu chuyện đi rừng với anh Nghĩa vẫn chưa vơi, dù muốn tìm hiểu thêm nhưng tôi bắt đầu ít hỏi chuyện vì đói và mệt. Bước chân đã uể oải mà ong thì chưa thấy tăm hơi đâu nên càng thêm nản. Đi thêm chừng 2km, đến trước vũng nước, thợ săn ong dừng lại cho biết: Tổ ong thường được làm từ bột cây khô. Mùa nắng, ong cần nhiều nước để giữ ẩm cho tổ và làm mát ong con nên chúng thường làm tổ gần khe suối. Khi ong xuống lấy nước, mình theo dõi và tìm đến tổ của chúng.
Anh Nghĩa còn khoe: Cũng nhờ vũng nước này, năm nay anh đã bắt được 3 tổ ong khoái, năm ngoái cũng phát hiện ra vài tổ từ đây. Giống ong khoái không phải chỗ nào cũng sà xuống lấy nước mà kén chọn lắm, dọc suối Khe Rỗ chỉ có một số điểm ong hay xuống lấy nước.
Kiên nhẫn chờ hồi lâu, cuối cùng cũng thấy ong xuất hiện, đây mới chỉ là bước đầu, muốn tiếp cận tổ ong cần khá nhiều thời gian. Đợi ong mải mê hút nước, anh Nghĩa dùng cành que nhỏ chấm một ít kem đánh răng vào gáy ong, sau khi ong về tổ phun nước xong, chỉ vài phút là quay lại, nhờ đó biết được chúng ở cách bao xa. Tổ ở gần ong bay cả đi lẫn về hết chừng 2 phút còn xa hơn mất khoảng 5 phút (bán kính từ tổ đến chỗ lấy nước xa lắm cũng chỉ từ 3km đổ lại).
Khi đã no nước, ong bay theo vòng xoáy ốc lên cao quá ngọn cây rồi lộn đi, lộn lại mấy vòng mới chịu rơi xuống tổ, có con nấp vào bụi cây một lúc mới bay về nhằm đánh lạc hướng ai theo dõi chúng. Mắt thợ ong phải tinh và căng lên mà nhìn, có khi phải trèo lên cây mới tìm được hướng bay. Khi đã xác định được tổ ong trong một phạm vi tương đối thì cứ trực chỉ hướng đó mà tiếp cận.
Ong thường làm tổ trên ngọn cây, trong bụi rậm hoặc ghềnh đá. Thấy tổ ong trên một thân cây gù cao quá đầu người, anh Nghĩa chặt tổ kiến rồi châm lửa hun cho ong bén khói, đàn ong vỡ tổ bay ra đen kịt, kêu ù ù như tiếng sấm xa, một lúc lâu tự tan để lộ sáp và mật vàng ươm.
Ngắm tổ ong ước tính nặng 5kg, anh phân tích: Người đi rừng chuyên nghiệp sẽ không bắt ong chúa, ong thợ để chúng còn duy trì đàn làm tổ và cho mật những mùa sau và khi đã xong phải dập tắt lửa để không gây hỏa hoạn. Ong khoái to, có nọc độc và dữ dằn hơn ong nuôi, khi xâm phạm đến tổ của chúng mà lượng khói hun không đủ mạnh để xua chúng đi thì cả đàn sẽ nhao vào đốt, rất nguy hiểm.
Sau khi ong bay hết, thợ săn ong dùng dao gọt phấn ong để riêng nhằm tránh lẫn vào mật sẽ làm mật bị chua và hỏng, nhộng ong gói vào túi mang về ngâm rượu hoặc chế biến các món ăn, để nguyên cả bọng mật đem bán.
Vài phút giải lao sau khi đã thu được “lộc rừng”, anh Nghĩa tâm sự: “Trong rừng xanh núi thẳm này chỉ cần thông thạo địa hình thì không lo gì đói. Những thứ lâm lộc trời đất ban tặng cho con người nhiều lắm, trừ hàng cấm bị kiểm lâm quản lý gắt gao, đồng bào quanh năm vẫn bám rừng kiếm sống. Đơn giản thì hái nấm, lấy măng, hái rau rừng, đàn ông khỏe chân đi được xa thì săn ong, bắt cua, cá, ốc, ếch hoặc lấy cây thuốc… nếu chịu khó chí ít cũng kiếm đủ ăn”.
Hiện xã An Lạc có hơn chục thợ săn ong chuyên nghiệp, riêng bản Nà Ó với 60 nóc nhà, chủ yếu dân tộc Tày, Nùng cũng có 6 thợ ong. Từ đầu tháng Tư đến nay, anh Nghĩa bắt được hơn hai chục tổ ong khoái, thu về khoảng 1 tạ (cả mật lẫn sáp) bán với giá 250 nghìn đồng/kg. Tháng trước, anh gặp may vì bắt được tổ lớn nặng tới 20 kg, bán được 5 triệu đồng.
So với năm trước, năm nay hạn hán kéo dài nên lượng mật ít hơn song cánh thợ săn ong vẫn chăm chỉ đi rừng. Nghe nói mật ong khoái tốt hơn nhiều mật ong nuôi nên giá cao gấp đôi, có lúc gấp ba. Chỉ cần thông báo có mật ong rừng là dân buôn từ Quảng Ninh, Hải Phòng đã chờ sẵn ở cửa rừng thu mua.
Theo Nguyễn Hưởng (Báo Bắc Giang)
Nuôi loài chỉ kêu từ hè sang thu, bán 350.000 đồng/con
Nhờ mô hình nuôi tắc kè, anh Ngọc Văn Viên (SN 1989, thôn Thượng, xã Long Sơn, huyện Sơn Động, tỉnh Bắc Giang) thu lãi khoảng 500 triệu đồng/năm. Anh Viên bán tắc kè thương phẩm với giá 250-350 ngàn đồng/con. Ngoài tự nhiên, tắc kè chỉ kêu từ tháng hè đến hết thu (tháng 5 đến tháng 10). Vào thời kỳ này người ta tổ chức đi bắt. Vào mùa khác, người ta dựa vào phân tắc kè mà đi tìm nơi chúng ở.
Dẫn chúng tôi tham quan trang trại, anh Viên cho biết, đầu năm 2011, anh sang Quảng Ninh tìm mua 140 cá thể tắc kè giống thương phẩm về nuôi sinh sản. Do thiếu kinh nghiệm nuôi, lại là giống có nguồn gốc từ trong Nam, không phù hợp với khí hậu miền Bắc, nên sau vài tháng, toàn bộ số tắc kè bị "xóa sổ" do dịch bệnh.
Thất bại, nhưng không bỏ cuộc, anh tìm tới trang trại nuôi tắc kè ở các tỉnh lân cận để học hỏi kinh nghiệm, đồng thời mua thêm sách tham khảo....
Anh Ngọc Văn Viên trao đổi kinh nghiệm gây nuôi sinh sản loài tắc kè với Kiểm lâm Bắc Giang
Cuối năm 2011, anh tới một trang trại nuôi tắc kè ở tỉnh Nam Định theo học kỹ thuật nhiều ngày, rồi mới quyết mua gần 100 con giống về gây nuôi sinh sản. Năm 2012, Phòng NN-PTNT huyện Sơn Động hỗ trợ, cấp cho anh Viên 30 cá thể tắc kè giống của dự án để gây nuôi sinh sản.
Trong quá trình nuôi, anh Viên phát hiện giống tắc kè đã phân bố tại địa phương có giá trị dược liệu rất cao, lại đang hiếm trên thị trường, được các hộ gia đình gây nuôi làm cảnh tại các xã vùng cao của huyện Sơn Động, anh đã tìm đến hỏi mua rồi về nhân giống.
Anh Viên chia sẻ: "Ban đầu trang trại chỉ có quy mô 20 m2, năm 2013, gia đình tôi đã đầu tư, xây dựng 1.000 m2; hiện đang nuôi hơn 3.000 con tắc kè, gồm cả giống và thương phẩm, có lúc nhiều nhất lên đến 6.000 con. Tắc kè thương phẩm xuất bán với giá từ 250.000 - 350.000 đồng/con, khách hàng mua chủ yếu về gây nuôi sinh sản hoặc làm dược liệu. Thị trường tiêu thụ đã mở rộng ra các tỉnh, thành Quảng Ninh, Hà Nội, Thái Nguyên, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, nhưng cũng không đủ nguồn hàng để cung cấp cho khách hàng. Mấy năm vừa qua, sau khi trừ các khoản chi phí, tôi thu lãi khoảng 500 triệu đồng/năm".
Anh Viên thổ lộ, nuôi tắc kè không giống như nuôi gia súc hay gia cầm. Khi nuôi đòi hỏi quy trình chăm sóc phải nghiêm ngặt hơn như thức ăn phải sạch 100%, chuồng trại phải thông thoáng, đủ ánh sáng tự nhiên, mát, nhiệt độ chuồng vừa phải. Hàng tuần phải phun thuốc sát trùng và thường xuyên vệ sinh môi trường sạch sẽ thì tắc kè sẽ không bị mắc bệnh ngoài da, nhiễm khuẩn hay bị bệnh tiêu hóa.
Về nguồn thức ăn, anh Viên tự nuôi dế mèn để cho tắc kè ăn. Theo anh Viên, với quy trình như vậy, anh chủ động được nguồn thức ăn, lại kiểm soát và không lo dịch bệnh, tắc kè sẽ khỏe mạnh, nhân đàn nhanh, đặc biệt là đỡ được một khoản chi phí không nhỏ.
Cũng theo anh Viên, mùa sinh sản của tắc kè từ tháng 4 đến tháng 8 âm lịch hàng năm. Mỗi lứa 1 cá thể mẹ sinh sản đạt từ 6 - 8 quả trứng, chúng đẻ liên tục trong nhiều năm, sau 2 - 3 tháng thì trứng nở. Kinh nghiệm khi nuôi tắc kè là ngoài việc cung cấp đủ dế mèn, nước uống cho tắc kè, người nuôi cần phải chú ý ghép đàn theo tỷ lệ 1 đực với 4 cái/chuồng nuôi; khi đó, tắc kè mới sinh sản tốt và nhân đàn nhanh.
Tắc kè thương phẩm tại trại nuôi của anh Ngọc Văn Viên
Anh Viên cho biết, từ ngày thành công với nghề, anh không nhớ đã giúp đỡ, bán giống cho bao nhiêu hộ trên địa bàn trong và ngoài tỉnh. Những người được anh giúp đỡ đến nay đều có thu nhập ổn định. Đáng chú ý phải kể đến anh Hoàng Văn Vui, trú tại thôn Thượng, xã Long Sơn, Sơn Động. Bị dị tật chân bẩm sinh, tưởng rằng không thể hòa nhập với xã hội, nhưng nhờ sự giúp đỡ, hỗ trợ giống, kinh nghiệm của anh Viên; hiện anh Vui đã tự "đứng lên" làm giàu cho mình, có thu nhập từ 50 - 70 triệu đồng/năm.
"Vừa qua, tôi đã thành lập Công ty Tắc kè đen Ngọc Viên; đồng thời đầu tư kinh phí khoảng 3 tỷ đồng để xây dựng nhà xưởng, máy móc, dây chuyền chế biến tắc kè thành các sản phẩm như cao tắc kè, bột tắc kè khô, rượu tinh chất tắc kè; với mục tiêu tạo sản phẩm thương hiệu đặc trưng địa phương, rồi dự tính sẽ xuất khẩu. Cùng với đó, tiếp tục phát triển các trang trại vệ tinh trong và ngoài tỉnh, sau đó bao tiêu hết tắc kè thương phẩm, tạo nguồn nguyên liệu đầu vào để chế biến các sản phẩm tại Công ty", anh Viên chia sẻ thêm.
Với những nỗ lực, sáng tạo không ngừng nghỉ trong hướng phát triển kinh tế mới, gắn với bảo tồn động vật hoang dã, anh Viên đã được tặng, thưởng nhiều bằng khen, giấy khen... Đặc biệt, năm 2017 anh được BCH Đoàn tỉnh Bắc Giang trao giải Ba cuộc thi "Ý tưởng sáng tạo khởi nghiệp trong nông nghiệp" tỉnh Bắc Giang năm 2017.
Theo Danviet
Con đặc sản bán Tết: Có ngựa bạch, lợn rừng, "chuột" ăn tre nứa Ngựa bạch, lợn rừng, thỏ, loài dúi rừng ăn tre nứa... là những mặt hàng đắt khách trong dịp Tết cổ truyền. Thời điểm này, nông dân trong tỉnh Bắc Giang đang dồn sức chăm sóc đàn vật nuôi đặc sản, chuẩn bị đưa ra thị trường sản vật chất lượng tốt nhất. Vài năm nay, khi đời sống, thu nhập khá hơn,...