Lý do FED vẫn tăng lãi suất bất chấp khủng hoảng ngân hàng
Ngày 22/3 (giờ Mỹ), Cục Dự trữ Liên bang Mỹ ( FED) đã thông báo tăng lãi suất thêm 0,25 điểm phần trăm bất chấp những lo ngại về khủng hoảng ngân hàng.
Động thái này cho thấy FED có ưu tiên khác trong tình hình hiện nay.
Chủ tịch FED Jerome Powell trong cuộc họp báo công bố quyết định tăng lãi suất ở Washington, D.C, ngày 22/3/2023. Ảnh: THX/TTXVN
Theo tờ Vox, tăng lãi suất lên mức 4,75 – 5% là một động thái gây tranh cãi khi những vụ sụp đổ xảy ra trong ngành ngân hàng Mỹ gần đây và một số nhà kinh tế lo ngại rằng lãi suất cao hơn có thể làm suy yếu thêm lĩnh vực tài chính.
Tuy nhiên, những người ủng hộ tăng lãi suất lại lập luận rằng tăng lãi suất sẽ cho thấy lĩnh vực ngân hàng đủ ổn định để chịu được lãi suất cao hơn. Ngoài ra, FED từ lâu đã chịu áp lực phải làm nhiều hơn nữa để giảm lạm phát và tăng lãi suất là một trong số ít công cụ mà FED có thể sử dụng. Năm ngoái, FED đã liên tục tăng lãi suất khi cố gắng kiềm chế lạm phát.
Nhà kinh tế trưởng Mark Zandi tại Moody’s cho biết: “FED đang mạo hiểm với hệ thống ngân hàng khi họ tăng lãi suất. Điều đó cho thấy FED sẵn sàng nhìn ra ngoài cuộc khủng hoảng ngân hàng và theo dõi lạm phát, đồng thời chấp nhận rủi ro hệ thống ngân hàng có thể gặp khó khăn”.
Trong những tháng gần đây, lạm phát ở Mỹ đã chậm lại nhưng vẫn ở mức cao. Giá tiêu dùng vẫn cao hơn khoảng 6% so với cùng kỳ năm ngoái và nhiều chuyên gia đã kêu gọi FED không tăng thêm lãi suất nữa cho đến khi tình hình bất ổn trong lĩnh vực ngân hàng lắng xuống.
Ông Zandi nói: “Nếu tôi là họ, tôi sẽ tạm dừng và nhìn xung quanh, rồi họ có thể tăng lãi suất một lần nữa vào cuộc họp tiếp theo”.
Video đang HOT
Mức tăng 0,25 điểm phần trăm mà FED đưa ra thấp hơn so với mức tăng trước đó và thấp hơn mức tăng 0,5 điểm phần trăm dự kiến ban đầu trước khi xảy ra các vụ sụp đổ ngân hàng. Đó có thể là một dấu hiệu cho thấy FED đang cố gắng cân bằng giữa mối lo ngại về các ngân hàng và tình trạng lo lắng về chi phí sinh hoạt của người Mỹ.
Chủ tịch FED Jerome Powell đã thừa nhận loạt yếu tố này trong một cuộc họp ngày 22/3. Ông cho biết FED đã cân nhắc tạm dừng tăng lãi suất, nhưng dữ liệu lạm phát và thị trường lao động lại tác động mạnh hơn dự kiến.
Ông cũng báo hiệu rằng FED có thể sắp kết thúc đợt tăng lãi suất hiện nay và có thể chỉ tăng một chút trong tương lai.
Lãi suất cao hơn có thể làm giảm lạm phát nhưng cũng có thể kéo giảm nền kinh tế quá nhiều.
Quyết định của FED là một sự đánh đổi. Khi tăng lãi suất, FED có thể làm giảm lạm phát, trong khi có khả năng góp phần gây ra nhiều thách thức hơn trong lĩnh vực ngân hàng.
Lãi suất cao hơn đã làm giảm giá trị nắm giữ trái phiếu của Ngân hàng Thung lũng Silicon (SVB), khiến ngân hàng này rơi vào tình trạng khan hiếm tiền và sụp đổ khi bị rút tiền ồ ạt. Khi tăng lãi suất hơn nữa, FED có thể làm trầm trọng thêm tác động này, khiến việc vay mượn trở nên đắt đỏ hơn đối với các ngân hàng nói chung và làm giảm giá trị các khoản đầu tư của họ, trong đó có cả trái phiếu. Cả hai yếu tố này kết hợp lại có thể dẫn đến tình trạng các ngân hàng thiếu vốn và có nguy cơ chịu chung số phận với SVB trong trường hợp bị rút tiền ồ ạt.
Trụ sở FED tại Washington, D.C. Ảnh: THX/TTXVN
Ngoài ra, những đợt tăng lãi suất như vậy có thể đẩy nhanh nguy cơ Mỹ rơi vào suy thoái. Tăng lãi suất là để làm chậm lại một số hoạt động kinh tế, như chi tiêu của người tiêu dùng và tuyển dụng. Việc thu hẹp hoạt động cho vay của ngân hàng cũng có thể làm giảm hoạt động kinh tế và gây ra suy thoái. Nếu chi tiêu, tuyển dụng và cho vay giảm quá nhiều, đó là các yếu tố dẫn đến suy thoái.
Ông Chris Campbell, chiến lược gia chính sách trưởng tại Viện Kroll cho biết: “Trong suốt thời gian FED tăng lãi suất, họ đang ưu tiên lạm phát chứ không phải mở rộng kinh tế”.
Ông Campbell lập luận rằng điều quan trọng là FED phải tập trung vào lạm phát để Mỹ không rơi vào tình trạng “đình lạm” (lạm phát kèm suy thoái) trong thời gian dài như đã từng xảy ra vào những năm 1970. Tuy nhiên, những người khác, như nhà kinh tế Stephanie Kelton tại công ty Stony Brook, cảm thấy rằng FED đã đi quá xa trong tăng lãi suất và cho rằng lạm phát đang có xu hướng đi đúng hướng. Các yếu tố khác, như sức chi tiêu tiêu dùng được duy trì và tỷ lệ thất nghiệp thấp hơn mặc dù lãi suất cao hơn, cũng có thể ảnh hưởng đến quyết định của FED vì họ cho rằng nền kinh tế có thể chịu được lãi suất cao hơn.
Tuy nhiên, bà Kelton lưu ý rằng lĩnh vực ngân hàng có thể chịu nhiều tác động tiêu cực hơn dù điều này chưa xảy ra. Theo bà, những lần tăng lãi suất này của FED đã không tính đến điều đó.
FED tăng lãi suất lên mức cao nhất kể từ năm 2008
Ngày 21/9 (rạng sáng 22/9 theo giờ Việt Nam), Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ (FED) đã công bố đợt tăng lãi suất tiếp theo, trong nỗ lực nhằm kiềm chế tình trạng lạm phát đang ở mức cao kỷ lục trong 4 thập kỷ.
Trụ sở Ngân hàng Dự trữ Liên bang Mỹ ở Washington D.C. Ảnh: Reuters
Hãng tin AP ngày 21/9 cho biết Ủy ban Thị trường Mở Liên bang (FOMC), cơ quan hoạch định chính sách của FED, đã kết thúc hai ngày họp thường kỳ. FED thông báo ngân hàng này quyết định tăng lãi suất cơ bản thêm 0,75 điểm phần trăm, lên biên độ 3% - 3,25%.
Đây là lần tăng lãi suất thứ 5 trong năm nay và là lần thứ 3 liên tiếp FED tăng lãi suất 0,75 điểm phần trăm, mức độ mà Chủ tịch FED Jerome Powell gọi là "cao bất thường". Biên độ 3% - 3,25% cũng là lãi suất cao nhất của FED tính từ tháng 1/2008.
FED phát đi tín hiệu sẽ tăng lãi suất lên 4,4% trước cuối năm nay trước khi đạt mức đỉnh 4,6% vào năm 2023 để chống lạm phát.
Ngân hàng trung ương Mỹ đồng thời điều chỉnh các dự báo kinh tế quí của nước này, theo đó cho rằng nền kinh tế số 1 thế giới sẽ sụt giảm trong năm 2022 và đạt tăng trưởng Tổng sản phẩm quốc nội (GDP) 0,2%, sau đó sẽ tăng lên 1,2% vào năm 2023.
Trong khi đó, tỷ lệ lạm phát được dự báo vẫn ở ngưỡng rất cao 5,4% trong năm 2022. FED kỳ vọng tỷ lệ lạm phát sẽ giảm xuống quanh mức 2% vào năm 2025.
Về tỷ lệ thất nghiệp, FED dự báo sẽ tăng lên 3,8% trong năm nay và 4,4% trong năm 2023.
Theo số liệu của Cục Thống kê Lao động Mỹ, chỉ số giá tiêu dùng (CPI) tháng 8 tại nước này đã tăng lần lượt 0,1% và 8,3% so với tháng 7 và tháng 8/2021, vượt dự báo của giới quan sát.
Nền kinh tế Mỹ đã có một số dấu hiệu chậm lại dưới tác động của lãi suất cao hơn, cùng "cú sốc" đối với thị trường năng lượng do cuộc chiến ở Ukraine. Mặc dù vậy, theo Bộ Lao động Mỹ, lạm phát vẫn tăng cao trong tháng 8/2022, dẫn đến sự gia tăng đáng lo ngại về chi phí nhà ở, dịch vụ y tế, vận chuyển và thực phẩm.
Mỹ đang đối mặt với tình trạng lạm phát cao gây nhiều khó khăn cho người dân. Một số chuyên gia Phố Wall dự đoán nền kinh tế Mỹ có thể sẽ bắt đầu đi vào suy thoái từ cuối năm nay hoặc đầu năm tới, buộc FED sau đó sẽ phải giảm dần lãi suất.
Tuy nhiên, các quan chức FED tới nay vẫn bác bỏ khả năng này và cho biết sẽ tiếp tục tăng lãi suất lên khoảng 3,75-4% vào năm sau để chặn đà lạm phát nhưng sẽ không gây ra quá nhiều tổn thất phụ hay gây thiệt hại nặng cho nền kinh tế.
Sau thông báo tăng lãi suất của FED, các chỉ số chứng khoán chủ lực tại Phố Wall đã lao dốc trong khi tỷ giá đồng USD tăng mạnh. Chỉ số chứng khoán Dow Jones và S&P 500 đều giảm 1,7% xuống còn 30.183,78 điểm và 3.789,93 điểm, trong khi chỉ số Nasdaq giảm 1,8% xuống còn 11.220,19 điểm.
Trong khi đó, chỉ số đo giá trị đồng USD so với những đồng tiền chính trên thị trường tiếp tục tăng lên mức cao nhất trong 2 thập kỷ là 111,65. Điều này khiến tỷ giá đồng AUD và CAD và bảng Anh tụt xuống mức thấp nhất trong nhiều năm. Trên thị trường dầu mỏ, giá dầu Brent Biển Bắc đã giảm 0,9% xuống 89,83 USD/thùng, trong khi giá dầu WTI giảm 1,2% xuống 82,94 USD/thùng.
Nhận định chứng khoán tuần từ 20-24/6: Xu hướng giảm điểm ngắn hạn có thể vẫn duy trì Chịu áp lực lớn từ thị trường thế giới khi Cục dự trữ liên bang (Fed) ra quyết định tăng lãi suất thêm 0,75%, VN-Index đã có tuần giảm mạnh nhất trong 1 tháng với mức giảm 5,2%, tương ứng giảm 66,78 điểm. Giới phân tích cho rằng xu hướng giảm điểm ngắn hạn vẫn đang duy trì. VN-Index có thể sẽ kiểm...