Luật ‘trói tay’ Mike Pence
Luật ngăn Mike Pence tùy ý xác định ứng viên chiến thắng có nền tảng xuất phát từ việc đại cử tri của Wisconsin không thể bỏ phiếu đúng hạn do bão tuyết năm 1856.
Ngay cả khi Phó tổng thống Mike Pence muốn, ông không thể tùy ý tuyên bố Trump là người chiến thắng trong cuộc bầu cử tổng thống năm 2020 khi công bố kết quả kiểm phiếu đại cử tri tại phiên họp của quốc hội ngày 6/1, một phần do trận bão tuyết ở Wisconsin cuối năm 1856.
Tại lễ kiểm phiếu năm 1857, một cuộc tranh cãi đã nổ ra về 5 phiếu đại cử tri của Wisconsin, đã được bỏ một ngày sau hạn chót vì trận bão tuyết. Tranh cãi này không ảnh hưởng đến kết quả bầu cử vì nếu không tính 5 phiếu nói trên, ứng viên đảng Dân chủ James Buchanan vẫn dẫn trước đối thủ với khoảng cách đủ lớn để đắc cử. Nhưng quốc hội Mỹ sau đó đưa ra biện pháp có thể giúp cho các cuộc bầu cử trong tương lai không lâm vào tình cảnh tương tự.
Phó tổng thống Mike Pence tại Georgia ngày 4/1. Ảnh: AFP .
Ngày 6/1, lưỡng viện quốc hội Mỹ sẽ tập hợp trong một cuộc họp chung tại phòng họp của Hạ viện, đổ dồn chú ý vào những phong bì niêm phong chứa phiếu bầu đại cử tri từ 50 bang và thủ đô Washington. Tu chính án thứ 12 yêu cầu chủ tịch thượng viện, tức phó tổng thống “trước sự chứng kiến của Thượng viện và Hạ viện, mở tất cả chứng nhận phiếu bầu của các bang và sau đó các phiếu bầu sẽ được kiểm đếm”. Phó tổng thống sẽ là người công bố kết quả chung cuộc.
Tổng thống Trump đã từ chối nhận thua và tuyên bố rằng cuộc họp quốc hội hôm 6/1 là cơ hội vào phút chót để các nghị sĩ Cộng hòa đảo ngược kết quả bầu cử. Một thẩm phán liên bang đã bác bỏ vụ kiện nhằm tìm cách cho phép Pence là “người có thẩm quyền duy nhất và được tùy ý” quyết định kiểm đếm phiếu đại cử tri nào ở các bang. Bản thân Pence cũng phản đối vụ kiện đó. Cuối tuần trước, Trump gọi điện cho Tổng thư ký Georgia Brad Raffensperger, thúc giục “tìm” đủ số phiếu để lật ngược thất bại của ông ở bang này.
Thông thường, phiên họp này chỉ mang tính hình thức. Điều đó cũng đúng với cuộc họp vào ngày 11/2/1857 (lễ nhậm chức tổng thống khi đó diễn ra vào ngày 4/3). Trưa hôm đó, Chủ tịch Thượng viện tạm quyền James Mason là chủ tọa phiên họp vì Phó tổng thống William King đã qua đời 6 tuần sau khi nhậm chức và không được thay thế.
Khi Mason công bố ứng viên đảng Cộng hòa John Fremont giành được 6 phiếu đại cử tri của Wisconsin, hạ nghị sĩ John Letche đã phản đối, nói rằng các lá phiếu của Wisconsin là bất hợp pháp vì chúng được bỏ một ngày sau thời hạn.
Video đang HOT
Mason không biết phải làm gì, ông quyết định bác bỏ phản đối của Letcher và hoàn tất việc kiểm phiếu, tính cả các phiếu của Wisconsin. Kết quả cuối cùng là Buchanan giành được 174 phiếu đại cử tri, 114 cho Fremont và 8 cho Millard Fillmore.
Thượng nghị sĩ Kentucky John Crittenden chất vấn rằng bằng cách chấp nhận lá phiếu của Wisconsin, Mason liệu có nắm trong tay “đặc quyền định đoạt cuộc bầu cử và xác định ai sẽ là tổng thống? Tôi phản đối bất kỳ quyền lực nào như vậy”, ông nói.
Thượng nghị sĩ Andrew Butler nhấn mạnh rằng việc sử dụng “quyền lực tùy tiện như vậy có thể khiến một người trở thành tổng thống Mỹ mà không cần qua bầu cử”. Các phiếu bầu ở Wisconsin không tạo ra bất kỳ sự khác biệt nào với kết quả bầu cử năm 1856, nhưng một số nhà lập pháp cảnh báo rằng việc cho phép chủ tọa chấp nhận lá phiếu bất hợp pháp của một bang có thể tạo ra “tiền lệ nguy hiểm”. “Biết đâu có ngày kết quả bầu cử phụ thuộc vào các lá phiếu của bang đó”, hạ nghị sĩ James Orr nói.
Thượng nghị sĩ Robert Toombs lập luận rằng nếu cần có người quyết định xem các phiếu bầu có hợp lệ hay không thì đó phải là quốc hội. “Tôi không cho rằng chủ tọa có quyền ‘bịt miệng’ các nghị sĩ ở đây, quyền quyết định lẽ ra phải nằm trong tay chúng tôi”, Toombs nói. Mason phản bác ông chỉ đang làm công việc của mình.
Các thượng nghị sĩ trở về phòng họp của thượng viện và tiếp tục bàn luận. “Tôi không tin tưởng người nào tùy ý định đoạt ai sẽ là tổng thống Mỹ. Giả sử phó tổng thống phải cân nhắc giữa hai danh sách đại cử tri đối chọi từ cùng một bang, chẳng phải ông ấy sẽ chọn những phiếu bỏ cho ứng viên của đảng mình hay sao?”, Butler nói.
“Tôi đảm bảo với ông rằng đó là quyền lực có thể bị lợi dụng trong giây phút cám dỗ, và chỉ Chúa mới biết khi nào giây phút cám dỗ có thể đến với một người mong muốn trở thành tổng thống. Tôi không muốn tin tưởng quá nhiều người”, ông nói thêm.
Các cuộc thảo luận kéo dài đến hôm sau. Sau đó, Thượng viện quay trở lại phòng họp của Hạ viện và cuối cùng họ đạt được thỏa hiệp. Các phiếu bầu của Wisconsin được tính vì quốc hội thống nhất rằng “sự kiện vượt ngoài tầm kiểm soát của con người” đã khiến các đại cử tri không thể đến bỏ phiếu đúng hạn.
Những tranh luận này đã tạo tiền đề cho cải cách và những lời kêu gọi đưa ra quy định cụ thể leo thang sau cuộc bầu cử năm 1876 giữa ứng viên đảng Cộng hòa Rutherford B. Hayes và ứng viên đảng viên Dân chủ Samuel Tilden – được coi là cuộc bầu cử tổng thống gây tranh cãi nhất trong lịch sử Mỹ.
Ở các bang miền Nam năm 1876, cuộc bỏ phiếu bị cản trở bởi những lời đe dọa bạo lực từ các đảng viên Dân chủ, những người muốn cử tri da màu không đi bỏ phiếu. Đảng Dân chủ cũng tạo ra các lá phiếu mang hình ảnh của tổng thống đảng Cộng hòa nổi tiếng Abraham Lincoln để dụ các cử tri mù chữ chọn Tilden.
Vào cuối chiến dịch tranh cử đầy hỗn loạn, hai phe đều tuyên bố chiến thắng ở ba bang Florida, Louisiana và Nam Carolina với tổng cộng 19 phiếu đại cử tri. Các phe phái chính trị cạnh tranh ở những bang này đã gửi hai bản danh sách đại cử tri khác nhau, một ủng hộ Tilden, một ủng hộ Hayes, lên quốc hội. Tại Florida, thống đốc bang gửi danh sách đại cử tri ủng hộ đảng Cộng hòa, trong khi tổng chưởng lý bang gửi danh sách ủng hộ đảng Dân chủ.
Ba bang có tranh chấp kết quả này định đoạt kết quả chung cuộc của cuộc đua. Nếu phiếu đại cử tri của đảng Cộng hòa được tính, Hayes sẽ là tổng thống. Nếu phiếu đại cử tri của đảng Dân chủ được tính, Tilden sẽ chiến thắng.
Quốc hội phải lập ra một ủy ban gồm 15 thành viên để giải quyết tranh chấp, trong đó Hạ viện, Thượng viện và Tòa án Tối cao mỗi bên cử ra 5 đại diện. Ủy ban cuối cùng đã bỏ phiếu với tỷ lệ 8 phiếu thuận 7 phiếu chống, trao số phiếu đại cử tri tranh chấp cho Hayes, giúp ông đắc cử tổng thống.
Nỗi sợ hãi được nêu ra vào năm 1857 là “lời tiên tri cho vấn đề nảy sinh vào năm 1877″, một tờ báo ở Richmond viết năm 1887. Năm đó, Quốc hội Mỹ thông qua Đạo luật về Đếm phiếu Đại cử tri và nó trở thành khuôn khổ cho cách kiểm phiếu hiện nay.
Dựa vào tiền lệ năm 1857, đạo luật cấm phó tổng thống tùy ý bác bỏ các phiếu đại cử tri của một bang. Để làm vậy, một hạ nghị sĩ và một thượng nghị sĩ cần phải cùng nhau đệ trình văn bản phản đối. Thượng viện và Hạ viện sẽ tranh luận riêng về kiến nghị này trong tối đa hai giờ. Sau đó, Hạ viện và Thượng viện sẽ bỏ phiếu riêng rẽ về việc có chấp nhận kiến nghị hay không.
Thủ tục này hiếm khi xuất hiện trong lịch sử bầu cử Mỹ. Lần gần đây nhất nó xuất hiện là vào năm 2005, khi một số nghị sĩ Dân chủ phản đối các phiếu đại cử tri của Ohio cho George W. Bush nhưng bất thành.
Giờ đây, một số nhà lập pháp ủng hộ Trump tuyên bố họ sẽ tìm cách chặn chứng nhận chiến thắng của Biden. Tuy nhiên, họ nhiều khả năng gặp kết quả tương tự năm 2005.
Cựu cố vấn nói Trump từng định để Ivanka làm 'phó tướng'
Trump từng đề xuất ý tưởng đưa con gái Ivanka làm phó tướng trong cuộc đua vào Nhà Trắng năm 2016, theo cựu cố vấn chiến dịch.
"Trong cuộc thảo luận về ứng viên phó tổng thống, với sự tham gia của cả Jared Kushner, con rể Trump, cùng nhiều người khác trong phòng, Trump nói 'Tôi nghĩ người đó phải là Ivanka. Ivanka trở thành phó tướng của tôi thì sao?'". Tất cả im lặng", Rick Gates, người từng là phó phụ trách chiến dịch tranh cử của Donald Trump năm 2016, cho biết trong cuốn hồi ký mới về Tổng thống Mỹ.
Cuốn "Trò chơi xấu: Câu chuyện của người trong cuộc về cách Trump giành chiến thắng, Mueller thất bại và nước Mỹ mất mát" dự kiến ra mắt vào ngày 13/10, ba tuần trước cuộc bầu cử tổng thống Mỹ.
Tổng thống Mỹ Trump (phải) và con gái Ivanka tại một hội nghị ở Wisconsin, Mỹ, ngày 13/6/2017. Ảnh: AP.
"Tất cả mọi ánh mắt đổ dồn về phía Ivanka, và cô ấy chỉ tỏ vẻ ngạc nhiên. Tất cả chúng tôi đều đủ hiểu Trump để im lặng và cố nén cười", Gates viết. "Ông ấy tiếp tục: 'Ivanka sáng sủa, thông minh, xinh đẹp và mọi người sẽ yêu mến cô ấy!'". Gates viết rằng vào thời điểm đó, ông đã nghĩ Trump không nói đùa.
Tuy nhiên, chiến dịch của Trump năm 2016 sau đó đã chọn Mike Pence làm phó tướng cho ông. Pence, cựu thống đốc bang Indiana, đã trở thành một trong những trợ lý trung thành nhất của Trump, sẽ tranh luận với Kamala Harris, phó tướng của Joe Biden, vào ngày 7/10 trên truyền hình vào khung giờ vàng.
Gates phải hầu tòa tháng 10/2017 liên quan cuộc điều tra về nghi vấn Nga can thiệp bầu cử Mỹ năm 2016, cũng như quan hệ giữa chiến dịch tranh cử của Trump với Moskva, điều mà Điện Kremlin luôn phủ nhận.
Ông là một trong những nhân chứng hợp tác với cơ quan điều tra và bị kết án ba năm bị quản thúc tại gia vào tháng 12/2019 với các tội danh liên trốn thuế và khai man với Cơ quan Điều tra Liên bang Mỹ (FBI) về việc giúp Paul Manafort, cựu quản lý chiến dịch tranh cử của Trump, che giấu số tiền bất chính trong tài khoản ngân hàng nước ngoài.
Phần lớn cuốn hồi ký sắp xuất bản của Gates kể về thời gian ông làm việc cho chiến dịch tranh cử của Trump, lễ nhậm chức của Tổng thống và nhóm America First Policies ủng hộ Trump.
Trong cuốn sách, Gates nói rằng Trump, người không tin tưởng các chính trị gia xung quanh ông và coi trọng lòng trung thành hơn tất cả, từng nhiều lần gợi ý đưa người thân của mình vào các vị trí tranh cử quan trọng.
Ivanka Trump và chồng, Kushner, đều trở thành cố vấn cấp cao cho Tổng thống Mỹ sau khi ông nhậm chức. Cả hai từ chối bình luận thông tin được đưa ra liên quan đến hồi ký của Gates.
Đoàn xe tranh cử của Phó tổng thống Mỹ gặp nạn Xe buýt và hai mô tô hộ tống Phó tổng thống Pence đã liên tiếp gặp tai nạn nhỏ khi đi tới sự kiện vận động tranh cử ở Pennsylvania. Khoảng 10 phút sau khi rời sân bay Allegheny, ở West Mifflin, bang Pennsylvania, xe buýt thuộc chiến dịch tranh cử của Phó tổng thống Mike Pence đã có "va chạm nhỏ" khi...