Loãng xương, “sát thủ” thầm lặng
Ảnh hưởng sức khỏe, khả năng thương tật vĩnh viễn và tử vong cao, cùng với các khoản chi phí điều trị tăng nhanh… là những nguy hại của bệnh loãng xương được đề cập tại ngày hội vì sức khỏe xương nhân ngày Thế giới phòng chống loãng xương 20/10 diễn ra tại TPHCM.
Loãng xương là căn bệnh làm xương bị yếu, giòn và dễ gãy dù chỉ bị ngã hoặc va quệt nhẹ do xương bị mất dưỡng chất, nhất là canxi.
Kết quả khảo sát từ nhóm nghiên cứu của ThS-BS Hồ Phạm Thục Lan (Đại học Y Phạm Ngọc Thạch, BV Nhân dân 115) Việt Nam hiện có tới 30% phụ nữ và 10% nam giới trên 50 tuổi bị loãng xương,nâng tổng số ca mắc bệnh loãng xương trên cả nước lên 2,9 triệu người. Các chuyên gia dự đoán, con số này sẽ tăng lên 4,5 triệu người vào năm 2020 và 11 triệu người vào năm 2050.
Loãng xương được xem là “sát thủ” thầm lặng đối với sức khỏe con người, đặc biệt là với phái nữ
PGS.TS.BS Lê Anh Thư, Trưởng khoa Nội cơ xương khớp bệnh viện Chợ Rẫy, Chủ tịch Hội Loãng xương TPHCM gọi căn bệnh loãng “sát thủ thầm lặng” đối với sức khỏe con người. Biến chứng gãy xương do loãng xương nguy hiểm không kém nhồi máu cơ tim và đột quỵ với tỷ lệ tử vong 20% và đến 50% bị thương tật vĩnh viễn.
“Trái với vẻ bề ngoài thô cứng và không có sự sống như mọi người vẫn nhầm tưởng, xương thực chất là một mô sống. Tế bào xương bị hủy đi và tái tạo không ngừng thông qua quá trình chu chuyển xương. Tốc độ hủy xương diễn ra nhanh hơn tốc độ tạo xương, hay nói cách khác, xương bắt đầu suy yếu khi chúng ta bước vào độ tuổi 30-35. Một khi xương mất đi thì không cách nào có thể lấy lại được và dẫn đến loãng xương.”, BS Lê Anh Thư cho hay.
Video đang HOT
Bà Thư nhấn mạnh, tại châu Á, trong đó có Việt Nam, chi phí điều trị loãng xương tăng nhanh đến chóng mặt. Hiện ở mức tương đương với chi phí điều trị hai căn bệnh ung thư thường gặp ở phụ nữ là ung thư vú và cổ tử cung cộng lại, và ước tính tới năm 2050, thế giới có thể phải tốn tới 131,5 tỉ USD để chữa trị những ca chấn thương liên quan đến loãng xương.
Thế nhưng điều đáng quan ngại hơn cả là đa số người dân vẫn chưa ý thức rõ về căn bệnh này và những hệ lụy nghiêm trọng của nó nên chưa có biện pháp phòng tránh phù hợp.
Thông điệp chính của Ngày thế giới phòng chống loãng xương năm nay là khuyến khích mọi người hãy yêu quí và chăm sóc sức khỏe xương của mình thông qua việc tập luyện thể dục thường xuyên và duy trì một chế độ dinh dưỡng cân bằng bao gồm đầy đủ canxi, vitamin D và chất đạm…
Canxi có nhiều trong sữa và các chế phẩm từ sữa (sữa chua, phô mai), cá sông, cá biển, tôm, tép, cua, ốc, trai, nghêu, sò, đậu hũ. Khi ăn cá, tốt nhất nên ăn cá kho nhừ ăn cả xương. Vitamin D có nhiều trong bơ, sữa, trứng, gan gà, dầu cá thu… Tắm nắng cũng giúp cơ thể tổng hợp thêm loại vitamin này.
Các chuyên gia cũng khẳng định, dinh dưỡng không phải là yếu tố quyết định hoàn toàn độ khỏe của xương. Bên cạnh chế độ dinh dưỡng, chúng ta cần có một lối sống lành mạnh, không hút thuốc, tránh sử dụng chất có cồn quá nhiều vì chúng làm cho xương mất canxi và khoáng chất dẫn đến bị yếu và dễ gãy. Đồng thời phải tăng cường vận động và tập thể dục thường xuyên (đi, chạy bộ, tập yoga…).
Trong ngày này, 300 phụ nữ từ độ tuổi 30 tại TPHCM được đo xương miễn phí. Sau đó họ tham gia đạp xe diễu hành qua các tuyến phố để tuyên truyền thông tin về sức khỏe xương đến người dân trong thành phố.
Theo PNO
Có nên cho trẻ ăn nấm thay thịt, trứng?
Xuất phát từ thông tin nấm giàu chất đạm, nhiều bà mẹ đã có "sáng kiến" thay thịt, cá, trứng, sữa trong khẩu phần con trẻ bằng nấm, với suy nghĩ sẽ giúp trẻ phòng tránh được một số loại bệnh tim mạch, béo phì, mỡ trong máu... Lựa chọn này liệu có đúng đắn?
Giá trị dinh dưỡng của nấm
Nấm là thức ăn khá thông dụng trong bữa ăn của người châu Á cũng như toàn thế giới. Trong chế độ ăn chay, nấm đóng góp rất nhiều vào việc làm tăng độ ngọt cho thức ăn, đem lại cảm giác đậm đà. Người ta cũng nói nhiều đến nấm với những tác dụng bổ trợ sức khoẻ như ngăn ngừa tăng mỡ máu, chống lão hoá, chống oxy hoá, tăng sức đề kháng... Các loại nấm hay được sử dụng là nấm rơm, nấm mỡ, nấm bào ngư, nấm kim châm, nấm đông cô, nấm mèo (mộc nhĩ), nấm hương... Cao cấp hơn có nấm linh chi, nấm đông trùng hạ thảo...
Về thành phần dinh dưỡng, nấm có rất ít chất béo (trừ nấm rơm). Năng lượng cung cấp từ nấm không cao, khoảng 30kcal/100g nấm thường và 50kcal/100g nấm có chứa chất béo như nấm rơm (tức là chỉ bằng 1/8 - 1/10 năng lượng từ 100g gạo). Trong nấm có chứa nhiều chất khoáng, các vi chất (kẽm, selenium, germanium, vanadium, crom...), các vitamin tan trong nước như thiamine, riboflavin, niacin, biotin, cobalamins, ascorbic acid... và các chất polysaccharide và triterpen... có tác dụng tăng cường chuyển hoá và tăng đề kháng cho cơ thể. Đây cũng là những thành phần giúp phòng một số bệnh như ung thư, tiểu đường, tăng mỡ máu, tăng huyết áp, giảm sức đề kháng...
Với nấm, đừng nhìn mặt mà bắt hình dong.
Trẻ em có nên ăn nấm?
Với trẻ em, nhu cầu về năng lượng và chất béo cao hơn nhiều so với người lớn. Trẻ nhỏ, nhất là trẻ dưới hai tuổi, phải được cung cấp đầy đủ chất béo trong khẩu phần ăn để có thể hoàn thiện cấu tạo của bộ não và dây thần kinh. Trong đó, cholesterol cũng có vai trò rất quan trọng vì giúp tạo nên màng tế bào, các nội tiết tố, muối mật và có chức năng vận chuyển chất béo trong máu đến các mô cơ thể. Người ta không hạn chế chất béo, kể cả cholesterol ở trẻ dưới hai tuổi, trừ một vài trường hợp đặc biệt và phải có chỉ định của bác sĩ. Trong khi đó, năng lượng và chất béo từ nấm đóng góp không đáng kể vào khẩu phần ăn của trẻ. Nếu chúng ta sử dụng nấm để cung cấp đạm thay thế cho thịt, cá, trứng, sữa... thì lượng đạm có trong nấm không đáp ứng nổi nhu cầu và thành phần của các axít amin cũng không cân đối.
So với một số loại rau giàu đạm khác, lượng đạm trong nấm cũng không cao hơn. Ví dụ trong 100g rau ngót có đến 5,3g protein, trong rau muống và rau má là 3,2g, hạt sen tươi là 9,5g, giá đậu xanh là 5,5g, còn đậu Hà Lan là 6,5g... Với trẻ 1 - 3 tuổi, nhu cầu chất đạm tối thiểu vào khoảng 28 - 36g/ ngày, trong đó 500ml sữa cung cấp khoảng 15g, 100g gạo khoảng 8g, còn 10 - 15g từ thịt cá (gần 100g thịt/ngày). Nếu sử dụng nấm để thay thế thịt cá, trẻ 1 - 3 tuổi cần ăn đến 300 - 500g nấm/ngày! Tuy nhiên, ngoài lượng nấm khổng lồ phải ăn, thành phần của đạm nấm và đạm thực vật nói chung cũng có giá trị sinh học thấp hơn đạm động vật. Đạm của thực vật thường tiêu hoá kém (70 - 80%) và thường thiếu lysine (ngũ cốc) hay nhóm axít amin chứa lưu huỳnh (rau củ). Đây là những axít amin cơ thể không thể tự tổng hợp, bắt buộc phải được cung cấp từ nguồn thức ăn bên ngoài.
Dùng nấm sao cho hợp lý, an toàn?
Người ta khuyên nên sử dụng đạm động vật cho trẻ nhỏ do khả năng tiêu hoá cao (90 - 95%) và có đủ các axít amin thiết yếu. Do đó, không nên dùng đạm thực vật nói chung và đạm nấm nói riêng thay cho đạm động vật ở trẻ em.
Khi sử dụng nấm để làm thức ăn, còn cần phải phân biệt rõ nấm ăn được và nấm độc. Tuyệt đối không sử dụng những loại nấm lạ, nấm có màu sặc sỡ vì chứa nhiều độc chất có thể nguy hiểm đến tính mạng. Nấm cũng rất dễ bị hư thối nên sử dụng càng tươi càng tốt. Bảo quản nấm phải nhẹ nhàng, đúng cách và tuân thủ đúng các khuyến cáo. Trong nuôi trồng nấm, tránh lạm dụng các thuốc kích thích tăng trưởng.
Ăn nấm lạ, đẹp: bốn người nhập viện Ngày 16.10, thông tin từ bệnh viện Hữu nghị Việt Nam - Cuba Đồng Hới (Quảng Bình) cho biết vừa điều trị thành công bốn bệnh nhân bị ngộ độc do ăn nấm lạ. Trường hợp thứ nhất là chị H.T.P., 42 tuổi, ngụ ở huyện Lệ Thuỷ, cấp cứu trong tình trạng người lơ mơ, đau bụng, nôn mửa, choáng... Người nhà cho biết trên đường về nhà thấy các cây nấm mọc ven đường, hình tròn, màu sắc đẹp, chị P. đã hái về nấu canh ăn. Sau ăn khoảng 30 phút, chị bắt đầu xuất hiện các dấu hiệu như trên với mức độ nặng dần. Trường hợp thứ hai là ba cha con anh N.V.T., ngụ ở thị trấn Việt Trung, huyện Bố Trạch, nhập viện do ngộ độc nấm rừng. Theo lời kể của anh T., khi vào rừng thấy nhiều cây nấm lạ, màu đẹp anh đã hái về nấu canh cho hai con cùng ăn. Sau khi ăn một lúc cả ba đau bụng dữ dội, đi ngoài và nôn nhiều, chóng mặt... Lê Hương
Theo SGTT
7 cách bảo vệ "vòng 1" của bạn "an toàn" Phụ nữ trẻ sẽ có nguy cơ bị ung thư vú thấp hơn so với những người lớn tuổi. Nhưng nếu bị ung thư vú, tình trạng bệnh có thể xấu hơn so với bệnh ở những phụ nữ khác. Khi nói đến phụ nữ trẻ và bệnh ung thư vú, bạn không nên quá bi quan vì có những tin không hay...