Loại trừ những hành vi tội phạm còn “ẩn nấp”
Thực tiễn đã chứng minh “không thể thực hành quyền công tố tốt nếu như không tiến hành điều tra và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay” nên nhiều ý kiến đã tán đồng với việc Dự thảo Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân (VKSND) – sửa đổi vừa được trình tại Kỳ họp thứ 7 Quốc hội khóa XIII qui định về thẩm quyền và tổ chức cơ quan điều tra trong VKSNDTC.
Theo báo cáo của Ủy ban Tư pháp của Quốc hội, trong 3 năm qua, từ năm 2010 tới năm 2013, số người phạm tội trong các cơ quan tư pháp, tức là người của cơ quan tư pháp thực hiện chiếm đến 10% tổng số tội phạm trong phạm vi cả nước.
Còn theo thống kê của VKSNDTC, từ năm 2010 đến nay, Cơ quan điều tra VKSNDTC đã khởi tố 169 vụ với 206 bị can là người của các cơ quan tư pháp phạm tội trong hoạt động tư pháp, số lượng vụ án tham nhũng trong hoạt động tư pháp được điều tra, khởi tố bằng 10% số án của cả nước.
Ảnh minh họa: KT
Dân mạng xôn xao mánh khóe cướp giật mới của tội phạm
Trao “cây gậy” điều tra để VKS làm tốt quyền công tố
Từ thực tiễn tội phạm trong hoạt động tư pháp ngày càng phức tạp và nghiêm trọng như vậy, nhiều chuyên gia đánh giá, quy định thẩm quyền và tổ chức cơ quan điều tra trong VKSNDTC sẽ tạo thêm điều kiện cho VKSND thực hiện được toàn diện, có hiệu quả vai trò công tố, đặc biệt vai trò kiểm sát các hoạt động tư pháp trong các khâu điều tra, nhất là để cơ quan điều tra thuộc VKSNDTC trực tiếp điều tra các tội phạm trong hoạt động tư pháp do người của các cơ quan tư pháp thực hiện, góp phần nâng cao tính khách quan và hiệu quả trong công tác phòng, chống tội phạm nói chung và tội phạm trong hoạt động tư pháp nói riêng.
Hoàn toàn tán thành việc dành cho VKSND quyền điều tra, ông Trần Ngọc Vinh – Phó trưởng Đoàn ĐBQH TP.Hải Phòng – cho rằng, qui định như vậy sẽ tạo cơ sở pháp lý bảo đảm cho Cơ quan điều tra của VKSNDTC thực sự phát huy được sức mạnh, là công cụ phục vụ hiệu quả chức năng thực hành quyền công tố, kiểm sát hoạt động tư pháp của VKSND; đồng thời phục vụ đắc lực trong việc đấu tranh phòng, chống tham nhũng, tiêu cực trong các hoạt động tư pháp của cơ quan tư pháp.
Từ những nhận thức thực tiễn trong hoạt động tư pháp, “có oan sai thì có “bóng dáng” của tội phạm tham nhũng”, ông Đỗ Văn Đương (Ủy ban Tư pháp của Quốc hội) thấy rằng: “Tiếp tục phải quy định cơ quan điều tra và chỉ tổ chức ở VKSNDTC thì mới đảm bảo hiệu quả trong công tác thực hành công tố và kiểm sát tư pháp”, vì “nếu VKS không có quyền điều tra mà chỉ phát hiện và kiến nghị xử lý những hoạt động vi phạm bề nổi thì sẽ không loại trừ được những hành vi tội phạm “ẩn nấp” đằng sau vi phạm đó”.
Qua tổng kết trong hai năm rưỡi, số lượng vụ án tham nhũng trong hoạt động tư pháp được điều tra, khởi tố bằng 10% số án của cả nước, ông Hà Công Long – Phó trưởng ban Dân nguyện của Quốc hội – khẳng định, hoạt động điều tra của VKSND là một công cụ quan trọng trong việc đấu tranh chống tham nhũng cho hoạt động tư pháp nên “tiếp tục quy định như trong Dự thảo Luật Tổ chức VKSND (sửa đổi) là hết sức cần thiết, không cản trở gì với vấn đề thu gọn đầu mối cơ quan điều tra, không ảnh hưởng gì đến các hoạt động điều tra khác. Không thể thực hành quyền công tố tốt nếu như không tiến hành điều tra và đặc biệt trong giai đoạn hiện nay”.
Video đang HOT
“Lấp” những “khoảng trống” trong hoạt động điều tra
Không chỉ đồng tình với việc trao quyền điều tra cho VKS, ông Nguyễn Doãn Khánh – Phó Trưởng ban Nội chính Trung ương – còn đề nghị nghiên cứu mở rộng thêm thẩm quyền cho Cơ quan điều tra VKSNDTC trực tiếp điều tra đối với trường hợp VKS thực hiện có dấu hiệu của sự bỏ lọt tội phạm, người phạm tội hoặc có dấu hiệu oan sai và yêu cầu điều tra bổ sung nhưng cơ quan điều tra không thực hiện yêu cầu của VKS, trong trường hợp này cần có sự đồng ý của VKS.
Trường hợp thứ hai là khi VKS có đầy đủ căn cứ để khẳng định nếu giao cho cơ quan điều tra khác thực hiện điều tra thì sẽ không đảm bảo tính khách quan, minh bạch, tính nghiêm minh của pháp luật, đặc biệt người phạm tội là người thuộc cơ quan điều tra.
Ngược lại, cũng có một số ý kiến cho rằng không nên mở rộng nhiệm vụ điều tra của cơ quan điều tra VKSND, thậm chí không quy định chức năng điều tra cho VKSND vì như ý kiến của ông Chu Sơn Hà – Phó trưởng Đoàn ĐBQH TP.Hà Nội: “Nếu giao cho VKSND điều tra thực hành sẽ khó khách quan, sẽ xảy ra tình trạng vừa điều tra, vừa giữ quyền công tố”.
Còn theo ông Phạm Hồng Phong – Phó Chánh án TAND tỉnh Hậu Giang: “Hiến pháp 2013 cũng không quy định chức năng điều tra cho VKS nên việc điều tra vụ án chỉ giao cho cơ quan công an thực hiện để phân biệt rành mạch ba giai đoạn tố tụng là điều tra, truy tố và xét xử”.
Từ góc độ cơ quan điều tra, ông Phạm Trường Dân – Phó Giám đốc Công an tỉnh Quảng Nam – nhận thấy: “VKSND có thẩm quyền trực tiếp tiến hành một số hoạt động điều tra” thì không bảo đảm nguyên tắc tố tụng hình sự và sự chế ước lẫn nhau giữa các cơ quan tư pháp, nên đề nghị “quy định cho rõ VKS có quyền tiến hành một số hoạt động điều tra nào, không nên quy định chung chung như Dự thảo, sẽ gây khó khăn cho việc áp dụng sau này khi Dự án Luật có hiệu lực thi hành”.
Việc VKSND có được quyền điều tra hay không sẽ còn phải chờ đến cuối năm nay Quốc hội biểu quyết. Tuy nhiên, phân tích sự cần thiết phải mở rộng thẩm quyền điều tra của Cơ quan điều tra VKSNDTC, ông Nguyễn Bá Thuyền (Ủy ban Pháp luật của Quốc hội) nhấn mạnh, hoạt động điều tra của cơ quan điều tra cũng là để phục vụ cho chức năng công tố, giúp cho cơ quan thực hành quyền công tố đưa vụ án ra Tòa và buộc tội người phạm tội trước Tòa án. Xuất phát từ chức năng hiến định của VKS trong hoạt động tư pháp thì giao thẩm quyền điều tra cho VKS đối với các tội xâm phạm hoạt động tư pháp là hoàn toàn đúng đắn.
Bên cạnh đó, thực trạng nền tư pháp nước ta vẫn còn một số mặt hạn chế, tồn tại nên việc duy trì Cơ quan điều tra của VKS với tư cách là một cơ quan điều tra chuyên trách, độc lập để phát hiện, điều tra, xử lý khách quan và phòng ngừa có hiệu quả đối với các tội phạm này là cần thiết.
Theo Pháp luật Việt Nam
Người phạm tội có thể nộp tiền thay vì chấp hành hình phạt tù?
Theo quy định của Bộ luật Hình sự (BLHS), hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung. Có đến 74/267 điều của BLHS có quy định về hình phạt tiền, song thực tiễn cho thấy hình phạt tiền được áp dụng rất ít trên thực tế.
Phạt tiền không phải hình phạt được "ưu tiên"
Một ví dụ rất điển hình được một thẩm phán Tòa Hình sự TAND TP.Hà Nội dẫn ra tại cuộc hội thảo hoàn thiện quy định của BLHS về hệ thống hình phạt không tước tự do do Bộ Tư pháp tổ chức. Đó là một vụ án có tình tiết rất éo le. Một nhóm bạn đến thăm vợ người bạn ốm. Ham vui, mấy ông bày trò đánh bài ăn tiền. Bị bắt quả tang trên chiếu bạc với số tiền hơn 2 triệu đồng (2 triệu là mức để truy tố), cả nhóm bị đưa ra Tòa.
Khi xét xử, thẩm phán nói trên đã rất băn khoăn bởi hoàn cảnh của các bị cáo đa phần khó khăn, lại sinh sống ở nông thôn nên nếu phạt họ 5 - 10 triệu thì cũng khó lòng thu được. Sau khi cân nhắc, thay vì phạt tiền, thẩm phán nọ đã tuyên bị cáo cải tạo không giam giữ.
Ảnh minh họa
Theo phân tích của thẩm phán này, cải tạo không giam giữ thì bị cáo vẫn có điều kiện chăm sóc vợ ốm. Trong trường hợp này, có lẽ việc tuyên án của Tòa vẫn là "hợp lý" hơn cả. Bởi bị cáo vừa không phải nộp tiền, lại vẫn được về gia đình sinh sống "bình thường", hết thời hạn thì được xóa án tích.
Nhiều thẩm phán cũng rơi vào "hoàn cảnh" tương tự như trường hợp nêu trên và họ cho biết sự lựa chọn của họ cũng không phải là phạt tiền. Thực tế có rất nhiều vụ đánh bạc với giá trị nhỏ (vài triệu), phạm tội lần đầu, đối tượng có nhân thân tốt... nhưng cũng không "được" phạt tiền mà sẽ áp dụng các hình phạt khác tương tự như vụ án nói trên.
Lý giải tình trạng này, nhiều chuyên gia cho rằng hình phạt tiền rất ít khi được áp dụng do nhiều nguyên nhân.
Nguyên nhân thứ nhất phải kể đến là do chính quy định của BLHS. Theo Khoản 1 Điều 30 BLHS thì phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng (tội ít nghiêm trọng có mức cao nhất của khung hình phạt là 3 năm tù - PV) xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lí hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Mặc dù vậy nhưng trong nhiều điều luật thuộc các trường hợp nêu trên, BLHS hiện hành lại quy định phạt tiền là hình phạt chính, ngay cả đối với tội nghiêm trọng. Điều này, theo nguyên Thứ trưởng Bộ Tư pháp Phạm Quý Tỵ phân tích "là mâu thuẫn với nhau". Do đó, theo TS Tỵ các thẩm phán đã không áp dụng phạt tiền đối với những tội trên vì Khoản 1 của một số tội (ví dụ một số tội xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, tội xâm phạm an toàn công cộng...) lại quy định phạt tiền là hình phạt chính ngay cả với tội nghiêm trọng. Để giải quyết vấn đề này, các thẩm phán đã lựa chọn phương án an toàn cho phán quyết của mình bằng cách áp dụng hình phạt khác như phạt cải tạo không giam giữ, phạt tù có thời hạn mà không phải phạt tiền.
Tổng kết BLHS, Bộ Tư pháp cũng thừa nhận: Điều 30 BLHS quy định hình phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, hành chính và một số tội phạm khác nhưng không quy định rõ "tội phạm khác" có buộc phải thuộc loại tội ít nghiêm trọng hay không, hay có thể loại tội phạm khác. Ở phần các tội phạm cụ thể thì trong cấu thành của một số tội phạm nghiêm trọng cũng có quy định hình phạt tiền là hình phạt chính.
Nguyên nhân thứ hai, phạt tiền ít được áp dụng bởi thực tiễn tố tụng chưa có nhiều tiền lệ, gây quan ngại cho các thẩm phán. Thực tế thống kê cho thấy, số bị phạt tiền chỉ chiếm một phần nhỏ trong 10% số người bị kết án (cùng với hình phạt tử hình, cải tạo không giam giữ, cảnh cáo). Nhiều thẩm phán cho biết, hiện nay do nhiều ý kiến vẫn chưa đồng thuận với việc áp dụng hình phạt tiền, cho rằng lấy tiền thay cho tù thì chỉ lợi cho người giàu nên dù khẳng định đó là quan điểm "sai lầm" nhưng nhiều thẩm phán vẫn e ngại khi áp dụng phạt tiền.
Mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền
Một trong những định hướng cơ bản của việc xây dựng BLHS sửa đổi là sửa đổi, bổ sung các quy định về hình phạt và các biện pháp tư pháp áp dụng đối với các tội phạm về kinh tế nhằm nâng cao hiệu quả của việc áp dụng hình phạt đối với các tội phạm kinh tế.
Theo Bộ Tư pháp, mục đích của các tội phạm kinh tế chủ yếu là tìm kiếm lợi nhuận, do vậy cần nghiên cứu, bổ sung theo hướng tăng cường áp dụng hình phạt tiền (có thể là hình phạt chính hoặc hình phạt bổ sung) đối với các tội phạm về kinh tế nhằm nâng cao tính răn đe và giảm nguy cơ tái phạm.
Theo hướng này thì cần mở rộng phạm vi áp dụng hình phạt tiền ngay cả đối với các tội phạm nghiêm trọng, thậm chí là một số trường hợp phạm các tội rất nghiêm trọng, đồng thời nâng mức phạt tiền cao hơn mức hiện hành; đồng thời sửa đổi một số quy định liên quan đến việc thi hành án để nâng cao tính răn đe và hiệu quả của việc áp dụng hình phạt tiền và các hình phạt mang tính vật chất khác; nghiên cứu khả năng áp dụng các biện pháp tư pháp như: tịch thu tiền, tài sản, cấm vĩnh viễn hoặc cấm có thời hạn biện pháp tư pháp cấm đảm nhiệm chức vụ, cấm hành nghề hoặc làm những công việc nhất định liên quan đến các hoạt động kinh tế; nghiên cứu khả năng chuyển đổi hình phạt tiền (với ý nghĩa là hình phạt chính và hình phạt bổ sung) với hình phạt tù có thời hạn khi mà người phạm tội có thái độ cố tình không chấp hành hình phạt tiền hoặc có biểu hiện tẩu tán tài sản gây khó khăn cho quá trình thi hành án.
Ngoài ra, nghiên cứu khả năng nâng mức hình phạt (hình phạt tù và các hình phạt khác) đối với các tội phạm về kinh tế nhưng lại có nguy cơ gây ảnh hưởng nghiêm trọng, trực tiếp đến tính mạng, sức khỏe của con người như các tội phạm liên quan đến an toàn, vệ sinh thực phẩm; tội sản xuất, buôn bán hàng giả là lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, phòng bệnh...
TS Phạm Quý Tỵ đồng tình với quan điểm "giảm hình phạt tù, mở rộng áp dụng hình phạt tiền" nhưng đề nghị phạt tiền được áp dụng là hình phạt chính đối với người phạm tội ít nghiêm trọng và nghiêm trọng xâm phạm trật tự quản lý kinh tế, trật tự công cộng, trật tự quản lý hành chính và một số tội phạm khác do Bộ luật này quy định.
Để đảm bảo tính khả thi của hình phạt tiền trong thực tiễn thi hành hình phạt, trường hợp người phải chấp hành phạt tiền không thi hành thì chuyển sang phạt tù. Quy định như vậy, theo TS Phạm Quý Tỵ, để việc áp dụng hình phạt này được chặt chẽ, đáp ứng được mục đích chung của hình phạt là vừa trừng trị, vừa giáo dục, cải tạo người phạm tội, tránh vận dụng một cách tràn lan, dễ nảy sinh tiêu cực.
Giảng viên Lê Trung Kiên (Khoa Luật, Học viện Cảnh sát nhân dân) ủng hộ chủ trương mở rộng phạm vi đối tượng áp dụng hình phạt tiền vì theo thống kê của ông Kiên, BLHS của Việt Nam hiện chỉ có trên 47% điều luật quy định về hình phạt tiền trong khi ở các nước tỷ lệ này rất cao. "Đành rằng không phải cao là tốt vì nó còn liên quan đến quan niệm thế nào là tội phạm, song cũng cần nghiên cứu" - ông Kiên nói và cho rằng, nên quy định điều kiện để áp dụng phạt tiền theo hướng nghiêm khắc hơn, ví dụ chỉ được nộp một lần với tội ít nghiêm trọng.
Một trong những yêu cầu của Nghị quyết 08 của Bộ Chính trị về một số công việc trọng tâm của cải cách tư pháp trong thời gian tới và Nghị quyết 49 về Chiến lược cải cách tư pháp đến năm 2020 là "giảm hình phạt tù, hạn chế hình phạt tử hình, tăng cường các hình phạt không phải tù như phạt tiền, cải tạo không giam giữ...".
Để cụ thể hóa yêu cầu của các Nghị quyết nói trên, nhiều ý kiến đồng thuận cần nghiên cứu sửa đổi, bổ sung các quy định của BLHS theo hướng mở rộng phạm vi các trường hợp có thể áp dụng hình phạt tiền. Thậm chí, có thể quy định việc người phạm tội có thể nộp tiền thay vì buộc họ phải chấp hành hình phạt tù, không nhất thiết phải cách ly họ khỏi xã hội.
Đặc biệt, trong các nhóm tội về tham nhũng, xử nặng không phải là "liều thuốc đặc trị" mà vấn đề không kém phần quan trọng là thu hồi tài sản do hành vi tham nhũng gây ra. Nếu người phạm tội tham nhũng tự nguyện nộp lại tài sản do tham nhũng mà có thì sẽ được giảm nhẹ hình phạt.
Thừa nhận "phạt tiền rất tốt", tuy nhiên, TS Trịnh Tiến Việt, Phó Chủ nhiệm Bộ môn Tư pháp hình sự, Khoa Luật, Đại học Quốc gia Hà Nội đề nghị cần phải trù liệu đến những trường hợp bị cáo bị tạm giữ, tạm giam, sau đó bị áp dụng hình phạt tiền thì khấu trừ ra sao? Mặt khác, Tòa án khi áp dụng hình phạt tiền cũng phải xem xét đến khả năng tài chính của bị cáo đó, chẳng hạn có khoản dư nợ nào không, có đang thực hiện nghĩa vụ cấp dưỡng cho ai không... để đảm bảo tính khả thi và tính nhân văn của hình phạt.
Theo Pháp luật Việt Nam
Oan sai có bóng dáng của tội phạm tham nhũng Tham nhũng trong hoạt động tư pháp là ăn tiền, nhận hối lộ, tham ô mới dẫn đến thay đổi hồ sơ vụ án, mới dẫn đến ra bản án hoặc quyết định trái pháp luật", ĐBQH Đỗ Văn Đương nêu. Sáng 5/6, Quốc hội thảo luận tại hội trường cho ý kiến về dự thảo Luật tổ chức Viện KSND sửa đổi....