Loài chim di cư có thực sự là do chúng sợ lạnh?
Chim di trú, chim di cư hay sự di cư của chim chỉ sự di chuyển đều đặn theo mùa, thường trên một đường bay theo chiều bắc nam giữa nơi sinh sản và nơi trú đông.
Nhiều loài chim có tập tính di cư, nhưng thực sự quá trình thay đổi chỗ ở này có phải là do chúng sợ lạnh?
“Có một con ngỗng xám không may mắn đã vô tình bị mắc kẹt trong lưới đánh cá và không thể bay. Một cậu bé vội vã xé lưới xung quanh nó. Ngay khi lưới đánh cá được tách ra, nó nhanh chóng dang rộng đôi cánh và bay lên để bắt kịp những người bạn đồng hành. Tiếp theo, những đàn ngỗng xám này vỗ cánh không mệt mỏi và bắt đầu một hành trình thập tử nhất sinh trong cuộc đời ….”.
Đoạn trích này từ Winged Migration – một bộ phim tài liệu năm 2001 của Jacques Cluzaud, Michel Debats và Jacques Perrin, cũng là một trong những nhà văn và người kể chuyện, giới thiệu những hành trình to lớn thường xuyên được thực hiện bởi những con chim trong quá trình di cư.
Hàng trăm tỷ con chim di cư mỗi năm theo chiều bắc nam giữa nơi sinh sản và nơi trú đông cách xa hàng ngàn hoặc thậm chí hàng chục ngàn km giống như một phép lạ của cuộc sống. Và chúng ta phải thừa nhận rằng quá trình di cư của loài chim là một trong những hiện tượng tự nhiên hấp dẫn nhất trên hành tinh.
Tuy nhiên, con người chúng ta biết rất ít về lý do tại sao chúng di cư. Nhiều người chỉ nghĩ đơn giản rằng chúng di cư về phía nam để bảo vệ bản thân khỏi cái lạnh giá của mùa đông. Trên thực tế, quan điểm này đã lỗi thời từ lâu.
Với sự nghiên cứu chuyên sâu của các nhà khoa học, chúng ta sẽ thấy rằng sự di cư của các loài chim đầy những bí ẩn và thách thức sự hiểu biết của con người hết lần này đến lần khác. Và hãy cùng đi tìm hiểu trường hợp đầu tiên.
Ancient murrelet là một loài chim vô cùng kỳ lạ, mỏ của chúng giống như loài chim sẻ, cơ thể giống như một con chim cánh cụt, đôi cánh thì giống như của loài vịt và chim non thì trông giống như những con gà con. Điều khác biệt nhất so với các loài chim khác là chân của chúng ở rất gần đuôi và có dáng đứng thẳng.
Tuy nhiên, chúng có vẻ khá vụng về. Loài chim này bay khoảng 8.000 km mỗi năm trên toàn bộ khu vực Bắc Thái Bình Dương và giữa các quốc gia Hoa Kỳ và Châu Á.
Chúng sinh sản ở miền tây Canada, sau đó bay hàng ngàn dặm băng qua đại dương ở khu vực Nhật Bản và Hàn Quốc để trú đông. Đây cũng là loài chim duy nhất được biết đến trên khắp Bắc Thái Bình Dương.
Lúc đầu, mọi người nghĩ rằng chim di cư là để tránh cái lạnh của mùa đông, tuy nhiên, nghiên cứu gần đây đã phát hiện ra rằng điều này không hoàn toàn đúng. Những nơi mà loài chim này di cư tới so với nơi chúng sinh ra đều có khí hậu ôn đới khá tương đồng tại cùng một thời điểm.
Về mặt lý thuyết mà nói, nếu chúng ở lại nơi chúng được sinh ra và mùa đông thì điều khiên khí hậu ở đó không ảnh hưởng nhiều và chúng vẫn có thể sống sót bình thường.
Vậy tại sao chúng vẫn phải thực hiện một hành trình dài để di cư hàng năm? Về vấn đề này, các nhà khoa học vẫn cảm thấy bối rối và không thể tìm được câu trả lời.
Tuy nhiên, ví dụ này rõ ràng đã phản bác lại quan điểm chim di cư là để tránh cái lạnh giá của mùa đông.
Chúng ta biết rằng di cư đề cập đến hành vi di chuyển theo hướng có quy mô lớn của động vật hoang dã, nhưng không có sự di cư nào nhận được sự quan tâm từ con người lớn như sự di cư của loài chim và cũng không phải tất cả các loài chim đều di cư.
Chúng ta có thể chia chim thành hai loại: chim cư trú và chim di cư. Như tên cho thấy, chim cư trú đề cập đến việc ở cùng một nơi quanh năm và không di cư.
Ví dụ như những loài thuộc bộ gà, chúng có khả năng bay yếu. Hầu hết các loài chim cư trú sống ở vùng khí hậu ấm áp, nhưng cũng có những loài chim cư trú ở vùng cao và lạnh, chẳng hạn như chim tuyết sống ở dãy Himalaya và loài chim cánh cụt Hoàng đế ở Nam Cực.
Chim di cư là loài chim có hành vi di cư nhất định. Nó được chia nhỏ thành các loài chim di cư mùa đông và các loài chim di cư mùa hè. Chim di cư mùa đông đề cập đến những loài chim đến một nơi nhất định để đan xen và o mùa đông và rời đi vào mùa xuân, chẳng hạn như hồng nhạn, thiên nga và vịt hoang dã…
Chim di cư mùa hè là loài chim đến một nơi nào đó vào mùa xuân và mùa hè và rời đi vào mùa thu. Trong thời kỳ này, chúng thường chịu trách nhiệm quan trọng là duy trì nòi giống, như chim cu và chim sẻ vàng.
Nhưng sự khác biệt giữa các loài chim di cư và cư trú là không tuyệt đối. Các loài chim giống nhau có thể di cư tới các khu vực khác nhau và thậm chí chúng có thể từ bỏ cả việc di cư hoặc ngược lại. Ví dụ, sếu đầu đỏ sinh sản ban đầu ở Hokkaido, Nhật Bản là một loài chim di cư, nhưng theo thời gian, một số lượng sếu đầu đỏ đã từ bỏ bản năng di cư và trở thành chim cư trú tại địa phương;
Một ví dụ khác là loài chim chèo bẻo, chúng một loài chim cư trú ở đảo Hải Nam và Vân Nam ở miền nam Trung Quốc, nhưng trong số chúng lại có một bộ phận di cư tới lưu vực sông Dương Tử và Bắc Trung Quốc theo thời gian cố định trong năm.
Vì vậy, điều gì có thể xác định chính xác sự di cư của các loài chim? Tại sao một số loài chim di cư vào năm ngoái, nhưng năm nay chúng đã trở thành những con chim cư trú ở phía bắc cho mùa đông?
Một số nhà khoa học đã suy đoán rằng sự di cư của loài chim có thể bắt nguồn từ thời kỳ băng hà 10.000 năm trước Công nguyên. Khi mùa băng ở Bắc bán cầu và tuyết rơi khiến một số loài chim buộc phải rời khỏi nơi cư trú để tìm những nơi có điều kiện sống tốt hơn để kiếm thức ăn. Khi giá lạnh qua đi, chúng sẽ lại trở về nơi sinh sống trước đấy.
Nhưng khi mùa động lại ập đến vào năm sau, hết năm này đến năm khác, nhóm chim di cư dần dần mở rộng và cuối cùng đã hình thành sự di cư hàng năm của các loài chim di cư.
Nói cách khác, sự xói mòn và đóng băng định kỳ của sông băng đã khiến các loài chim hình thành một bản năng di truyền thường xuyên từ thế hệ này sang thế hệ khác.
Tuy nhiên, lý thuyết này vẫn có những lỗ hổng nhất định. Nó không thể giải thích tại sao một số loài chim không di cư, và thời kỳ băng hà chỉ chiếm 1% trong lịch sử sinh tồn của loài chim. Một khoảng thời gian ngắn như vậy tại sao lại có thể có tác động di truyền của chim?
Trong những năm gần đây, hai nhà khoa học, W. Alice Boyle và Courtney Conway thuộc Đại học Arizona, đã đưa ra những ý tưởng mới để nghiên cứu di cư của loài chim.
Lý do tại sao di cư xảy ra là do tình trạng thiếu lương thực xảy ra ở một số khu vực trong thời tiết lạnh, buộc chúng phải rời khỏi nhà và di chuyển đến những khu vực có nhiệt độ cao và lượng thức ăn phong phú hơn.
Họ dựng một “siêu cây phả hệ” cho thấy mối quan hệ tiến hóa chính xác giữa các loài khác nhau. Máy tính sau đó sẽ xác định liệu một loài cụ thể nào đó di cư theo “truyền thống gia đình” hay môi trường sống của chúng thay đổi buộc chúng phải bay đi theo mùa.
Các nhà nghiên cứu tin rằng giả thuyết mới này cũng có thể được áp dụng cho hầu hết các loài chim. Lấy bán cầu bắc làm ví dụ, phần phía bắc của bán cầu bắc thích hợp cho chăn nuôi chim vào mùa hè. Vào thời điểm này, nhiệt độ ở phía nam quá cao và tác động từ các hoạt động của con người khá lớn nên không phù hợp cho đại đa số các loài chim giao phối cũng nhưng sinh nở và nuôi con non.
Tuy nhiên, vào mùa đông, các loài chim đang phải đối mặt với vấn đề lớn về sinh tồn do tuyết và băng ở phía bắc, vì vậy chúng sẽ chọn di chuyển về phía nam. Giả thuyết này cũng giải thích tại sao cùng một loài chim có thể chuyển đổi giữa cư trú và di cư.
Nếu thức ăn ở phía bắc vẫn dồi dào ngay cả khi nhiệt độ thấp, chúng sẽ không ngần ngại mà ở lại trong mùa đông và những con chim di cư trở thành những con chim cư trú. Nhưng nếu không có thức ăn vào mùa đông ở miền bắc, chúng sẽ chọn di chuyển về phía nam để sinh tồn.
Lý do khiến sếu đầu đỏ – loài đã nói ở trên thay đổi từ di cư sang cư trú là do người dân địa phương tại Nhật Bản đã cung cấp cho chúng nguồn thức ăn ổn định vào mùa đông.
Vậy tại sao chim không ở trong những khu vực ấm áp với lượng thức ăn dồi dào quanh năm?
Mặc dù các vùng xích đạo ấm áp trong suốt cả năm và không thiếu thức ăn, nhưng có nhiều kẻ thù tự nhiên và áp lực cạnh tranh lớn. Khi miền bắc ấm lên, ở phía bắc cũng có nhiều thức ăn và ít kẻ thù tự nhiên hơn so với khu vực xích đạo, vì vậy những con chim sẽ bay trở lại.
Một số nhà nghiên cứu tin rằng điều này có thể liên quan đến môi trường trú đông và sinh sản khác nhau của các loài chim khác nhau. Đối với những loài chim rừng nhỏ không di cư vào mùa đông, chúng có thể thay đổi chế độ ăn uống từ côn trùng, cá, các loài lưỡng cư sang ăn hạt cỏ và quả mọng trên tuyết.
Ngày nay, dưới sự tác động của biến đổi khí hậu, ảnh hưởng của con người và các yếu tố khác, phạm vi phân phối của một số loài chim đã thay đổi trên toàn cầu, và các hành vi di cư mới cũng được hình thành theo đó.
Theo Trí thức trẻ
1001 thắc mắc: Mặt trăng xa trái đất thế sao vẫn có thủy triều?
Thủy triều là hiện tượng nước biển lên xuống trong một chu kỳ biến chuyển thiên văn.
Thuỷ triều xảy ra do lực hút của mặt trăng tác động lên vỏ trái đất. Câu hỏi là tại sao mặt trăng xa trái đất như vậy mà vẫn có hiện tượng thủy triều?
Thuỷ triều xảy ra do lực hút của mặt trăng tác động lên vỏ trái đất
Mặt trăng là thiên thể gần nhất so với Trái đất trong vũ trụ. Khoảng cách trung bình giữa Mặt trăng và Trái đất là 384.400km. Nếu như con người đi bộ từ Trái đất đến Mặt trăng thì phải mất khoảng thời gian là 9 năm. Nếu như đi phi thuyền vũ trụ thì mỗi lần đi về từ Trái đất đến mặt trăng phải mất hơn 7 ngày.
Sức hút lẫn nhau giữa Mặt trăng và Trái đất có xu hướng làm cho chúng xích lại gần nhau. Nhưng sức hút này được bù bằng lực quay ly tâm của Trái đất, cũng như của Mặt trăng, xung quanh tâm quán tính của chúng.
Ở tâm Trái đất, lực ly tâm và lực hút từ Mặt trăng bù nhau. Nhưng đây không phải là trường hợp tại một điểm nào đó trên mặt đất vì hai lực thay đổi theo chiều ngược nhau: một điểm càng xa trọng tâm của Trái đất - Mặt trăng, lực ly tâm mà nó phải chịu sẽ càng lớn, trong khi ngược lại, sức hút của Mặt trăng giảm theo khoảng cách.
Do đó, hai lực không bù nhau trên bề mặt của Trái đất và sự chênh lệch của chúng là nguồn gốc của thủy triều: ở điểm A, lực ly tâm không đủ để cân bằng với sức hút, vì vậy A có xu hướng dịch chuyển về phía Mặt trăng. Ngược lại, ở điểm B lực ly tâm lớn hơn so với lực của Mặt trăng, do đó, B có xu hướng rời xa nó. Đó là lý do trên Trái đất có hai lần thủy triều mỗi ngày.
Hiện tượng hút vi phân này tác động đến toàn bộ bề mặt của Trái đất, nhưng chỉ sự biến dạng của đại dương là dễ nhận thấy, còn vỏ Trái đất quá rắn nên hình dạng của nó khó thay đổi.
Sự biến dạng này tăng lên khi Mặt trời nằm tháng hàng với Mặt trăng và Trái đất, khi ấy thêm vào hiệu ứng thủy triều riêng của nó. Chính vì vậy vào lúc trăng non và trăng tròn thủy triều là mạnh nhất.
1001 thắc mắc: Mặt trăng xa trái đất thế sao vẫn có thủy triều?
Hàng ngày, có 2 lần thủy triều lên và 2 lần thủy triều xuống. Mỗi ngày thủy triều lại xuất hiện muộn hơn khoảng 1 giờ so với ngày hôm trước. Bởi mỗi ngày, Mặt trăng phải thực hiện một phần vòng quay luân chuyển xung quanh Trái đất nên Mặt trăng bị chênh 1 giờ mới trở lại đúng cùng một điểm cũ.
Biên đồ của thủy triều (độ chênh lệch mực nước biển khi thủy triều lên và xuống) rất khác nhau. Ở các đại dương, biên độ này là 1m, ở các biển kín và nhỏ thì ít hơn: khoảng 30cm, nhưng ở các cửa sông và eo biển có thể lên tới 17m.
Những điều thú vị về thủy triều
Trái đất quay quanh chính mình trong 24h còn mặt trăng cần đến 27,3 ngày để quay quanh Trái Đất. Dù ở bất cứ nơi nào trên trái đất, sau 24h, bạn cũng phải chờ trăng chuyển động thêm 50 phút thì mới lại thấy trăng lần nữa ở vị trí trực tiếp ngay trên đầu mình.
Trong cả 2 pha trăng mới mọc (tối, mặt trăng nằm giữa trái đất, mặt trời và được mặt trời chiếu sáng phía sau) và trăng tròn (sáng nhất, trái đất nằm giữa trăng và mặt trời), lực hấp dẫn lên trái đất là cao nhất, bằng tổng tác động của mặt trời lẫn mặt trăng. Điều này lý giải vì sao hiện tượng thủy triều có 2 thời điểm lên cao nhất là ngày trăng mới xuất hiện và ngày trăng tròn.
Khi trăng ở các pha lưỡi liềm (thấy được ) và trăng khuyết (), lực hấp dẫn của mặt trời và mặt trăng trên trái đất sẽ tạo thành một góc 45 độ. Khi tổng lực này đạt mức cao nhất, trái đất đang ở một vị trí nào đó giữa mặt trăng và mặt trời.
Thời gian để trái đất di chuyển tới vị trí này có thể nhanh hơn hoặc chậm hơn vài giờ so với khi mặt trăng lên cao nhất trên bầu trời. Vì vậy thủy triều dâng cao nhất sẽ xảy ra trước hoặc sau khi mặt trăng ở vị trí cao nhất trên trời.
Thủy triều cạn là thủy triều yếu nhất, xảy ra khi mặt trăng đang ở pha hay phần tư đầu tiên hoặc cuối cùng (thấy được ), là lúc lực hấp dẫn của mặt trời và mặt trăng lên trái đất tạo thành góc 90 độ nên có thể loại trừ lẫn nhau gần như hoàn toàn.
Việc dự đoán thủy triều đôi khi sẽ khó khăn hơn vì mặt trăng không quay quanh trái đất trực tiếp ngay đường xích đạo mà quỹ đạo của trăng nghiêng một góc 5 độ so với mặt phẳng mà trái đất quay quanh mặt trời. Quỹ đạo tự quay quanh mình của trái đất cũng nghiêng 23,5 độ so với mặt phẳng này, tạo ra các mùa khác nhau.
Vì vậy mức thủy triều cao nhất trong mỗi ngày sẽ luôn ở trên hoặc dưới đường xích đạo. Đó là lý do vì sao thủy triều chỉ dâng cao một lần trong ngày tại những nơi có thủy triều.
Tại sao chúng ta lại phải đo thủy triều?
Việc xác định thủy triều giúp điều hướng trong ngành giao thông, vận tải hàng hải.
Khả năng dự báo của thủy triều, sự chuyển động nhanh của nước trong dòng chảy có thể cung cấp một nguồn năng lượng cho các cộng đồng sống dọc theo bờ biển bằng các nhà máy thủy điện.
Thủy triều cũng ảnh hưởng đến hệ sinh thái sinh vật biển, chúng cung cấp thức ăn, môi trường sống cho một số động vật ven bờ.
Việc thu thập số liệu thủy văn còn giúp chung ta nghiên cứu, đưa ra cảnh báo và bảo tồn các hệ sinh thái ven biển.
Theo Tiền Phong
Lời giải chấn động về tấm vải liệm có hình Chúa Jesus Tòa Thánh Vatican không đưa ra thông báo chính thức nào về tính xác thực của tấm vải nhưng vẫn có nhiều người tin là thật. Tấm vải liệm Turin dài khoảng 3m, rộng 1m nổi tiếng thế giới khi được cho là dùng để bọc xác Chúa Jesus sau khi hành hình. Theo đó, nó trở thành một trong những biểu tượng...