Lỗ hổng chính sách BOT và ETC
Việc Công ty TNHH Thu phí tự động VETC “dọa” trả lại dự án thu phí tự động không dừng ETC đang triển khai, cùng với những khoản vay nợ của các doanh nghiệp đầu tư dự án BOT đang dần chuyển sang nợ xấu ở các ngân hàng, là minh chứng cho sự thất bại về chính sách trong điều hành.
Tính toán sai từ đầu
Thực trạng của các dự án BOT hiện nay, được ví như “cục máu đông” về tín dụng cho ngân hàng và “mớ bòng bong” cho cơ quan chủ quản là Bộ GTVT, không phải bây giờ mới xảy ra, mà nó đã biểu hiện những bất thường ngay từ khi bắt đầu thực hiện từ nhiều năm trước.
Đó là những tính toán sai lầm từ các bên tham gia ngay từ đầu, khi cho rằng có thể thực hiện được các dự án đúng như kế hoạch và thu về đủ số vốn đã bỏ ra đầu tư cũng như tiền lãi dự tính. Vì thế, khi các bên xây dựng kế hoạch, họ đã tương đối dễ dãi về mặt chi phí, nên đã chi rất nhiều vào các khoản khác, không chỉ là đầu tư đơn thuần. Đó có thể là chia phần trăm cho “ bên A, bên B”, hay “phí bôi trơn”, khiến con số vốn đầu tư bị đẩy lên cao nhiều lần so với giá thực.
Thực ra, nhà đầu tư vẫn có thể thu hồi vốn và lãi đúng như kế hoạch, tức họ vẫn có thể trả được nợ vay ngân hàng, nếu chính sách không thay đổi và người dân không phản ứng gay gắt – điều đã diễn ra trong suốt thời gian qua và vượt ra ngoài dự kiến của doanh nghiệp. Nhưng ở đây có thể thấy doanh nghiệp đã gặp phải rủi ro do chính họ gián tiếp tạo ra, không phải do nguyên nhân khách quan.
Trạm thu phí BOT Cai Lậy – Tiền Giang cho đến nay vẫn chưa thu phí trở lại vì nhiều vấn đề tranh chấp chưa được giải quyết.
Bởi doanh nghiệp thu phí từ các trạm BOT quá cao, đặc biệt việc đặt các trạm thu phí tại những điểm người dân không có sự lựa chọn nào khác. Đây là sự “ cưỡng ép” người dân, dẫn đến việc bị người dân phản ứng mạnh mẽ. Kết quả, các trạm BOT hoạt động không đúng như dự tính, nguồn thu không được đảm bảo, phát sinh nợ xấu tại ngân hàng. Trong khi đó, nguồn vốn dự trữ nhằm đảm bảo chia sẻ những rủi ro của doanh nghiệp đầu tư cho BOT đã không còn, dẫn đến thực trạng bi đát như hiện nay.
Có thể nói, khâu tính toán, lập kế hoạch và giám sát của các bên cho dự án BOT đều có vấn đề ngay từ đầu. Từ khâu lập kế hoạch, triển khai đến giám sát, hoạt động đều mang tính chủ quan, không xét đến các yếu tố khách quan khác (ý kiến người dân, đánh giá của các tổ chức giám sát quốc tế độc lập, chia sẻ rủi ro).
Nhưng điều đáng nói là khả năng điều hành về mặt chính sách của Nhà nước trong lĩnh vực này đã tỏ ra quá yếu. Chính sách nhà nước là để điều chỉnh các lợi ích sao cho hài hòa, hợp lý, đảm bảo cho sự phát triển chung. Khi chính sách yếu sẽ dễ dàng bị các “nhóm lợi ích” vượt qua hoặc can thiệp để làm cho méo mó, không còn giữ được tính công bằng.
Câu chuyện các dự án BOT đã cho thấy điều đó – một minh chứng rõ nét nhất cho sự thất bại của chính sách. Chính sách không đủ mạnh nên đã tạo điều kiện để “nhóm lợi ích” trỗi dậy, can thiệp, lái theo hướng có lợi cho họ. Sửa sai về chính sách nói thì dễ, nhưng thực hiện được cũng rất khó khăn, nhất là khi nó đã để lại những hậu quả, di chứng cho nền kinh tế mà có thể dư âm còn kéo dài nhiều năm nữa.
Video đang HOT
Cần rà soát lại toàn bộ
Về sự việc của VETC, đã có nhiều ý kiến khác nhau bàn về hướng xử lý vấn đề này. Chưa vội bàn đến những giải pháp cụ thể, trước mắt đây là lúc cơ quan chức năng cần rà soát, đánh giá lại toàn bộ các dự án đã và đang triển khai, cũng như nợ xấu ngân hàng của các doanh nghiệp đầu tư BOT. Đây là yếu tố có tính chất kỹ thuật, không chỉ là giải pháp tạm thời như kiến nghị giãn nợ, giảm nợ.
Nội dung rà soát cũng cần phải được mở rộng, kể từ khâu lập kế hoạch dự án ban đầu cho đến những khoản chi phí của doanh nghiệp cho dự án BOT. Cụ thể, phải xác định rõ các khoản chi của doanh nghiệp có chính xác là cho đầu tư dự án, có hợp lệ, hay là chi “ngoài luồng”, là “phí bôi trơn”, chia chác nhau. Chỉ khi rà soát, đánh giá và có đầy đủ thông tin, khâu tiếp theo mới bàn đến việc giải quyết như thế nào.
Đối với các khoản nợ doanh nghiệp vay vốn ngân hàng để đầu tư cho dự án BOT, sau khi xác định là sử dụng đúng mục đích, đầu tư toàn bộ cho dự án thực sự, tùy từng mức độ có hướng giải quyết sao cho hợp lý, như có thể gia hạn nợ. Đây cũng là cách chia sẻ rủi ro với doanh nghiệp. Tuy nhiên, đối với những khoản vốn vay ngân hàng doanh nghiệp chi không hợp lý, không dùng để đầu tư cho dự án BOT mà chi cho việc khác, doanh nghiệp phải chịu trách nhiệm, không thể buộc ngân hàng gánh đỡ việc này.
Cuối cùng là hệ quả từ chính sách. Chính sách đúng đắn, hợp lý, công khai, minh bạch sẽ đủ sức cân bằng, phân phối, điều hành các lợi ích trong xã hội để hướng đến lợi ích chung, tạo động lực cho phát triển kinh tế – xã hội. Nhưng khi chính sách yếu kém, dẫn đến bị can thiệp làm cho méo mó, thậm chí bị thao túng, sẽ để lại những hậu quả khôn lường.
Trường hợp các dự án BOT là bài học đắt giá cho cơ quan chức năng trong tạo lập và điều hành chính sách. Luật Đầu tư theo phương thức đối tác công tư (PPP) đang được xem xét để thông qua, có thể sẽ là cơ sở để “vá” những lỗ hổng về chính sách trong thời gian qua. Nhưng, ngay cả khi đã có luật, nền tảng công khai, minh bạch vẫn phải được xem là yếu tố hàng đầu để đảm bảo rằng luật được thực thi đúng đắn.
Thực trạng của các dự án BOT hiện nay không phải bây giờ mới xảy ra, nó đã biểu hiện những bất thường ngay khi bắt đầu thực hiện từ nhiều năm trước. Đây là bài học đắt giá cho cơ quan chức năng trong tạo lập và điều hành chính sách.
PGS.TS Nguyễn Đức Thành, Viện trưởng Viện Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR)
Theo Saigondautu.com.vn
Xung đột đã nhìn thấy trước
Trao đổi với ĐTTC, PGS.TS NGÔ TRÍ LONG, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu giá cả (Bộ Tài chính), cho rằng câu chuyện lùm xùm về lắp đặt hệ thống ETC giữa VETC với các nhà đầu tư dự án trạm BOT, cho thấy sự xung đột giữa lợi ích các bên với nhau, trong đó có cả ngân hàng.
PHÓNG VIÊN: - Thưa ông, phải chăng xung đột này đã nhìn thấy trước?
PGS.TS NGÔ TRÍ LONG: - Việc triển khai dự án ETC chậm chạp có nhiều nguyên nhân. Thứ nhất, do nhà đầu tư BOT không dám và không muốn minh bạch. Ở đây, cơ quan nhà nước phải giám sát việc này, kể cả người dân cũng phải được tham gia giám sát để đảm bảo công bằng. Theo đó, buộc nhà đầu tư BOT phải minh bạch tổng mức đầu tư dự án, mức thu phí, doanh thu 1 ngày bao nhiêu, để hoàn vốn cần bao nhiêu thời gian, hợp đồng cho phép thu phí bao nhiêu năm, có chênh lệch nhau không, có vấn đề mờ ám không.
Thứ hai, ở góc độ đơn vị tham gia lắp đặt thiết bị ETC là VETC, quá trình thực hiện cũng thiếu minh bạch, ngay từ khâu đầu tiên là chỉ định thầu từ chính Bộ GTVT. Dù đơn vị nào cung cấp dịch vụ này cũng phải đảm bảo tính đồng bộ, thống nhất và phải liên thông, thuận lợi cho người dùng, nhưng yêu cầu này chưa đáp ứng được.
Nhìn lại vụ việc VETC, trước đó Chính phủ đã chỉ đạo giao Bộ GTVT xây dựng đề án, tổ chức thực hiện đấu thầu, song dường như Bộ GTVT chưa làm tròn trách nhiệm của mình. Bộ chịu trách nhiệm quản lý nhưng làm quá chậm, kéo dài quá lâu, chứng tỏ năng lực lãnh đạo, quản lý kém.
Ở đây có thể thấy có sự bất ổn ngay từ khâu đầu là Bộ GTVT chỉ định thầu, thay vì đấu thầu công khai. Đối với việc cung cấp dịch vụ ETC nhiều doanh nghiệp có thể làm được, không cần thiết chỉ giao cho 1 doanh nghiệp, cụ thể là VETC được chỉ định độc quyền cung cấp dịch vụ ETC là không phù hợp với kinh tế thị trường.
- Như vậy đã có chuyện tranh chấp lợi ích giữa các bên?
- Tôi cho rằng ở đây có chuyện "đá" nhau về lợi ích giữa các bên. Việc này không phải bây giờ mới nói, mà đã được đề cập rất nhiều. Trước hết, các dự án đầu tư BOT và thu phí không dừng được xem là "miếng bánh béo bở", nên khó có thể nói là có chuyện thua lỗ. Vừa qua, khi giải thích việc trả lại dự án, VETC cho rằng do doanh thu hoàn vốn cho dự án không như dự kiến ban đầu, do tiến độ ký hợp đồng dịch vụ, nhiều dự án BOT sụt giảm doanh thu... chỉ là cách giải thích chung chung.
Đối với nhà đầu tư BOT, trong các hội thảo, tôi được biết lý do họ đưa ra là chưa thỏa thuận được với VETC về mức phần trăm trích ra khi lắp đặt và vận hành thiết bị. Họ nói mức 4% quá cao, trong khi chính các dự án BOT đang phải hoạt động cầm chừng do những thay đổi về chính sách trong thời gian qua.
Thu phí ETC đã có sự "đá nhau" về lợi ích nên khó triển khai thông suốt.
Đặc biệt, việc liên kết giữa ngân hàng với VETC khi đầu tư lắp đặt thiết bị và mở tài khoản thu phí tự động đang đặt ra nhiều câu hỏi, và thực tế không được sự đồng tình của doanh nghiệp vận tải trong thời gian qua. Một số doanh nghiệp vận tải gửi kiến nghị đề nghị tại sao họ không sử dụng được tài khoản giao dịch của mình tại ngân hàng để trừ phí giao thông.
Bởi nếu làm được như vậy tiền sẽ đi thẳng từ tài khoản ngân hàng của chủ phương tiện vào thẳng tài khoản của chủ đầu tư BOT, không cần qua tài khoản trung gian, của VETC hay ngân hàng khác. Còn khi vẫn qua trung gian cả người đóng phí lẫn người thu phí đều phải gánh thêm mức phí trung gian, ở đây là VETC và các ngân hàng được hưởng lợi.
- Cuối năm nay các trạm thu phí trên toàn quốc phải chuyển sang thu phí ETC, nhưng hiện việc này mới đạt khoảng 10% so với kế hoạch. Theo ông, phải xử lý việc chậm trễ này như thế nào?
- Với tình hình hiện nay có thể thấy đến hết năm 2019 việc thu phí ETC không dừng khó hoàn thành trên toàn quốc. Nếu vậy, các bộ ngành, trực tiếp là Bộ GTVT phải làm rõ vì sao một chủ trương đúng đắn lại triển khai chậm chạp. Phải tìm ra nguyên nhân khách quan, chủ quan và phải có người chịu trách nhiệm. Về bản chất, hợp đồng VETC ký kết với Bộ GTVT là hợp đồng dân sự, quyền, nghĩa vụ, lợi ích các bên phải thực hiện theo thỏa thuận đã cam kết trong hợp đồng, trong khuôn khổ quy định của pháp luật Việt Nam.
Trong trường hợp xấu nhất, VETC cho rằng gặp khó khăn, lâm vào tình trạng phá sản, trả lại dự án phải thực hiện theo quy trình, thủ tục của Luật Phá sản. Khi ấy, hợp đồng của VETC với Bộ GTVT sẽ được tòa xử và thực hiện công khai, minh bạch. VETC có trách nhiệm thanh toán phần tài sản theo thứ tự ưu tiên là người lao động, rồi đến nghĩa vụ với Nhà nước, sau đó đến các nghĩa vụ khác. Nếu VETC đơn phương chấm dứt hợp đồng mà trong hợp đồng đã quy định chế tài, nhà cung ứng dịch vụ ETC phải chịu phạt, hình thức phạt như thế nào pháp luật Việt Nam và hợp đồng dịch vụ đã quy định rõ.
- Theo ông, cần những giải pháp gì để tránh được những trường hợp đáng tiếc của VETC khi thực hiện các dự án đầu tư theo hình thức PPP?
- Thứ nhất, các dự án cần phải được đưa ra đấu thầu công khai, minh bạch, không nên chỉ định thầu. Chỉ có qua đấu thầu mới chọn được nhà đầu tư có đủ năng lực để thực hiện dự án. Nhưng ngay cả khâu tổ chức đấu thầu cũng phải công khai, minh bạch, giám sát tốt, bởi nếu không các bên tham gia có thể thông thầu với nhau để lũng đoạn, cũng tạo ra những hệ lụy cho dự án. Thứ hai, cần có các giải pháp cũng như thỏa thuận cụ thể về phòng ngừa và chia sẻ rủi ro giữa Nhà nước với các doanh nghiệp.
Hiện nay, vụ việc của VETC vẫn còn tương đối phức tạp. Phía ngân hàng cho vay để thực hiện dự án lắp đặt thiết bị ETC đòi mức phí cao, nên VETC buộc phải tăng mức phí đối với nhà đầu tư BOT. Trong hoạt động kinh doanh là vậy, bên nào cũng mong muốn thu được lợi nhuận tối ưu. Do đó, các bên cần thương lượng, thỏa thuận với nhau.
Còn khi các bên không thể tự thỏa thuận được, Bộ Tài chính phải đứng ra can thiệp. Bởi theo quy định phí và thuế do Bộ Tài chính quản lý. Theo đó, Bộ Tài chính vào cuộc để thanh, kiểm tra, sau đó căn cứ vào tình hình thực tế đề ra phương án mức phí sao cho phù hợp.
- Xin cảm ơn ông.
Các dự án đầu tư BOT và thu phí không dừng được xem là "miếng bánh béo bở". Vì thế, việc chậm triển khai lắp đặt và khai thác dịch vụ ETC, cho thấy rõ đang có chuyện "đá" nhau về lợi ích giữa các bên liên quan.
Lưu Thủy (thực hiện)
Theo saigondautu.com.vn
Đại biểu Quốc hội lo ngại việc người Thái nắm quyền kiểm soát Nhà máy nước sông Đuống Phát biểu tại phiên thảo luận về Luật Đầu tư hôm nay 20/11, ĐBQH Lưu Bình Nhưỡng lo ngại về việc người Thái nắm quyền kiểm soát tại Nhà máy nước sông Đuống. Kỳ họp thứ 8 Quốc hội khóa XIV tiếp tục sáng nay 20/11 với phiên thảo luận của các ĐBQH về Luật Đầu tư (sửa đổi). Phát biểu tại phiên...