Lên Bắc Hà đi chợ phiên đặc sắc nhất Đông Nam Á
Chợ phiên Bắc Hà không chỉ nổi tiếng trong nước mà còn được đánh giá đặc sắc nhất Đông Nam Á.
Phiên chợ lưu giữ đầy đủ nét văn hóa truyền thống và màu sắc cuộc sống đồng bào dân tộc vùng cao Tây Bắc.
Chợ phiên Bắc Hà mỗi tuần họp một lần vào sáng chủ nhật. Phiên chợ cách TP Lào Cai 70km, nằm ngay giữa trung tâm thị trấn Bắc Hà (huyện Bắc Hà). Đây là nơi giao lưu, mua bán, trao đổi gặp gỡ của đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc.
Từ lâu, chợ phiên Bắc Hà nổi tiếng và thu hút đông đảo du khách trong và ngoài nước. Trải qua thời gian dài, phiên chợ vẫn giữ được nét đặc sắc riêng hiếm nơi nào có được. Hiện nay, chợ vẫn giữ đầy đủ những nét văn hóa truyền thống và màu sắc cuộc sống của đồng bào các dân tộc Mông, Tày, Nùng, Dao, Phù Lá…
Chợ Bắc Hà được chia ra nhiều khu vực như: khu vực đồ thổ cẩm, bán rau củ quả, cây thuốc, đồ ăn, hoa cây cảnh, cuốc xẻng… Nhiều nhất vẫn là đồ nông sản của người dân địa phương.
Điều khiến nhiều du khách thích thú nhất khi đến phiên chợ là được thưởng thức các món ăn đặc sản ở cao nguyên trắng như: thắng cố, thịt gà đen, phở chua Bắc Hà, bánh đúc ngô, bánh dầy… Bên cạnh đó là chợ có những khu vực bán trâu, chợ chó, chợ chim nổi tiếng.
Video đang HOT
Chợ gia súc, gia cầm được họp tách biệt với khu vực buôn bán sầm uất. Khu vực bán chó được bà con dân tộc thiểu số họp riêng với nhau. Ai có nhu cầu mua bán thì tìm đến đây để trao đổi, mua bán. Giống chó được bán nhiều nhất tại chợ là loài chó Bắc Hà bản địa – một trong 4 loài chó nổi tiếng ở Việt Nam.
Khu vực chợ lợn cũng họp nhộn nhịp ngay bên chợ chó từ sáng sớm cho đến giữa buổi chiều. Từ nhiều năm qua, phiên chợ được nhiều du khách biết đến nên vào dịp cuối tuần, những nơi họp chợ đông đúc, tấp nập “người mua kẻ bán” làm nhộn nhịp cả một vùng.
Chợ Bắc Hà luôn được du khách đánh giá là điểm đến hấp dẫn và được tạp chí nước ngoài đánh giá là khu chợ đặc sắc nhất Đông Nam Á. Hiện nay, do xã hội phát triển nên các nét văn hóa dân tộc đang có xu thế dần bị mai một. Vì thế, UBND huyện Bắc Hà đã có kế hoạch bảo tồn các nét văn hóa truyền thống để phát triển du lịch của phiên chợ.
Đến chợ phiên Bắc Hà, khách tham quan chủ yếu là người miền xuôi vượt hàng trăm cây số đến cao nguyên trắng, cũng có nhiều du khách nước ngoài đến đây để được hòa mình khám phá, trải nghiệm những nét đặc sắc, hấp dẫn về cuộc sống, phong tục của người dân nơi đây.
Những chàng trai dân tộc thiểu số bẫy được con chim nào đều mang xuống chợ giao lưu. Chợ chim ở chợ phiên Bắc Hà bán đầy đủ những loài chim rừng như: họa mi, sáo, ngũ sắc, đa đa, chào mào, chích chòe…
Thú chơi chim của người vùng cao cũng thu hút đông đảo du khách đến tham quan. Nhiều người yêu chim cảnh cũng tìm đến phiên chợ này để tìm mua cho mình chú chim ưng ý nhất đem về làm thú cưng.
Anh Trần Hùng quê Thanh Hóa đến phiên chợ Bắc Hà hòa mình vào dòng người tấp nập ở chợ chim chia sẻ: “Đến phiên chợ này tôi như được trở lại ký ức tuổi thơ. Đi chợ tìm thấy được niềm vui của không gian xưa cũ. Người mua, người bán cười đùa vui vẻ”.
Đồ mang đến chợ bán của người vùng cao đều là những thứ “của nhà trồng được”. Chị Giàng Thị May chia sẻ: “Nhà nào có chó, có lợn, có gà thì mang đến chợ bán. Nhà không có thì mang mớ rau, củ khoai, củ sắn, quả hồng, quả mận. Cứ cuối tuần là đến chợ phiên, vừa mua bán vừa gặp gỡ bà con các bản. Niềm vui của đồng bào vùng cao chúng tôi chỉ có thế thôi”.
Mỗi năm chợ phiên Bắc Hà thu hút từ 400-500 nghìn lượt du khách đến tham quan mua sắm. Huyện Bắc Hà đang nỗ lực phấn đấu để trở thành khu du lịch đặc sắc cấp tỉnh và cấp khu vực. Trong đó chú trọng đến việc quảng bá xây dựng các sản phẩm địa phương có thương hiệu như chợ phiên để du khách trong và ngoài nước biết đến mảnh đất du lịch Bắc Hà.
Chiếc gùi trong đời sống đồng bào dân tộc thiểu số vùng cao xứ Thanh
Với người Kinh, đôi quang gánh là vật dụng sản xuất của các bà, các mẹ từ bao đời. Thì với đồng bào các dân tộc thiểu số, biểu tượng trong lao động, sinh hoạt của họ là chiếc gùi.
Ở một góc nào đó thẳm sâu trong tâm hồn của người dân vùng cao, chiếc gùi như một người bạn tâm giao chia sẻ những buồn vui, nhọc nhằn trong cuộc sống thường nhật.
Chiếc gùi theo người phụ nữ Thái lên nương ở Bá Thước.
Đồng bào các dân tộc thiểu số Mông, Thái, Dao... quần cư ở 11 huyện miền núi và họ sống trong những ngôi nhà bên triền đồi, dưới tán cổ thụ tỏa bóng, mặt trông về cánh đồng kéo tận chân núi. Họ sống yên bình và an hòa như tính cách của chủ nhân miền sơn cước, vẫn ăn "lộc rừng", hưởng quả ngọt từ đất và luôn biết gìn giữ những giá trị tinh túy, nguyên sơ cho dân tộc mình. Non cao chào tháng 12 bằng những màn sương lạnh. Mùi đất, nước, cỏ cây, hoa lá... tỏa ra từ sân vườn cho tới nương rẫy, nhịp sống bận rộn cuốn trai gái trong làng mải miết lên nương, cặm cụi với từng hạt ngọc "trời ban". Các ngôi nhà trong bản cửa đóng then cài, duy chỉ còn thấp thoáng bóng dáng các cụ già ở lại hun nóng căn bếp lửa giữa những ngày đông của vùng non thiêng.
Hễ ai một lần đến với các huyện vùng cao xứ Thanh như Bá Thước, Mường Lát... hình ảnh thân quen dễ bắt gặp nhất là chiếc gùi trên lưng các bà, các mẹ, các chị khi đi làm nương hoặc xuống chợ. Thú vị nhất là hình ảnh khi người phụ nữ lên nương, xuống chợ có con nhỏ thường mang theo gùi để cho con ngồi vào trong đó, chỉ cần xòe chiếc ô ra là em bé có ngay chỗ ngủ ngon lành trên lưng mẹ. Trên những nẻo đường xuống chợ, là những chiếc gùi đầy rau xanh, có khi là con gà, con lợn, con chó, hay một can rượu ngô vừa mới nấu... Khi phiên chợ tan thì chiếc gùi lại làm nhiệm vụ chuyên chở những vật dụng thiết yếu về bản.
Chính vì là vật dụng không thể thiếu nên hầu như chợ phiên nào ở vùng cao: chợ phiên Phố Đoàn (xã Lũng Niêm, huyện Bá Thước), chợ phiên Nhi Sơn (xã Nhi Sơn, huyện Mường Lát), chợ phiên bản Pùng (xã Quang Chiểu, huyện Mường Lát)... đều có hẳn một dãy hàng chuyên bán gùi. Không chỉ làm sẵn mang đến chợ bán, ở những chợ phiên này, không ít lần chúng tôi còn bắt gặp hình ảnh một vài người đàn ông ngồi đan gùi ngay tại chợ. Dạo một vòng quanh chợ, chiếc gùi xuất hiện khắp nơi: Trên lưng những phụ nữ là chiếc gùi đựng đầy sản phẩm váy áo, khăn thổ cẩm để bán cho khách. Bên dãy hàng thực phẩm, chiếc gùi được dùng làm quầy hàng di động, bày bán hàng hóa. Khu đất trống trong khuôn viên chợ, những thiếu nữ Thái, Mông dập dìu váy áo thổ cẩm đang hàn huyên, trên lưng vẫn không thể thiếu chiếc gùi quen thuộc...
Không phải ngẫu nhiên chiếc gùi hình thành và có ở vùng cao. Tạo hóa thật công bằng khi ban tặng cho người vùng cao chiếc gùi để họ có thể leo ngang sườn dốc mang thóc, ngô hay nắm rau dớn, củ măng rừng về nhà. Nhờ gùi, đôi tay người vùng cao đỡ phần mệt mỏi. Cùng với con dao, cái cuốc, chiếc gùi gắn bó với người dân vùng cao, sẻ chia những nhọc nhằn, vất vả và trở thành vật dụng không thể thiếu trong đời sống của bà con, góp phần để những ruộng lúa, nương ngô phủ khắp núi đồi. Những hình ảnh ấy khiến chúng tôi nhớ đến câu nói của một chị người dân tộc Mông: "Chiếc gùi không phải là món đồ vô tri, nó là người bạn, vật tùy thân với người phụ nữ Mông trong cuộc sống mưu sinh nhọc nhằn".
Chiếc gùi theo những người phụ nữ vùng cao xuống chợ.
Mỗi dân tộc có những kiểu dáng gùi khác nhau và sự sáng tạo hoa văn, họa tiết riêng, tạo nên nét độc đáo của chiếc gùi. Đối với đồng bào dân tộc ở miền núi cao, bà con thường chế tác thân gùi có hình chữ A lộn ngược, đế nhỏ, miệng loe, gọn gàng, thuận tiện khi lên nương làm rẫy. Còn đồng bào dân tộc ở vùng thấp hơn, chế tác miệng và đáy gùi khá cân đối. Với đồng bào dân tộc Mông ở Mường Lát thường đan gùi vào mùa mưa từ tháng 6 đến tháng 9 hằng năm, rồi để gác bếp mùa vụ năm sau mới đưa ra dùng. Lý do là bởi vào mùa mưa không khí có độ ẩm cao, khi chẻ những nan tre không nhanh khô, có độ dẻo tốt, uốn, gập dễ dàng không bị nứt gãy. Đây cũng là thời gian người đàn ông rảnh rỗi hơn sau những ngày lao động vất vả trên nương. Đồng thời, chiếc gùi như sự chuẩn bị cho một mùa thu hoạch với hy vọng về một mùa vụ bội thu, ấm no, hạnh phúc. Vào dịp tết, chiếc gùi cũng được gia chủ dán giấy đỏ làm lễ nghỉ ngơi, chuẩn bị cho một mùa vụ mới.
Xuống khe suối vớt một số thanh tre đã ngâm kỹ từ trước đó lên rửa sạch, phơi khô, ông Sung Văn Cấu, xã Nhi Sơn (Mường Lát) khẳng định: "Việc ngâm cật tre xuống nước chừng 2 - 3 tuần trước khi đan sẽ giúp sản phẩm làm ra bền và không bị mọt". Cũng theo ông Cấu, mặc dù chiếc gùi gắn liền với cuộc sống hàng ngày của người phụ nữ Mông nhưng đây lại là sản phẩm đan đặc trưng của người đàn ông. Việc đan gùi cũng giống như việc đàn ông dân tộc Mông phải biết thổi khèn. Bắt đầu từ ông truyền sang bố, bố truyền lại cho con, để sau này lập gia đình riêng phải biết đan gùi cho vợ, con đeo. Trong đời người đàn ông Mông có thể phải đan cả trăm chiếc gùi, bởi sau vài năm chiếc gùi lại hỏng hoặc xuống cấp cần đan cái mới. Hơn nữa, trong gia đình, ai cũng có gùi riêng tùy theo độ tuổi của mình và cũng có nhiều loại gùi dành riêng cho các công việc khác nhau như: gùi thưa dùng để mang củi, mang ống nước từ rẫy, từ suối về nhà; gùi cỡ lớn, đan dày dùng đựng thóc, ngô...; có loại đẹp hơn thì dùng đi chợ...
Trong một gia đình người Mông có rất nhiều gùi.
Chặt tre, chọn cây, vót thanh là những công đoạn đầu tiên của một chiếc gùi, nói thì đơn giản nhưng bên trong đó là cả một kho kinh nghiệm quý giá về nghệ thuật đan lát mà không phải ai cũng nắm được và hiểu trọn vẹn về nó. Ông Cấu thường chọn các cây tre thẳng đều vừa tuổi, tầm 4-5 năm, không quá non và cũng không quá già. Bởi nan tre quá non khi khô sẽ teo tóp, còn già quá sẽ giòn, dễ gãy khi đan. Ngoài ra, thời điểm chặt phải tránh ngày trăng sáng vì theo quan niệm của người Mông, chặt lúc có trăng, tre nhanh mọt. Tre được mang về, đo, cưa từng khúc, rồi chẻ, vót thành các nan rộng khoảng 1cm với hai lớp vỏ và lõi để riêng biệt. "Để có được chiếc gùi đẹp hay không thì quá trình vót tre phải tỉ mẩn và chi li. Khi vót tre, người đan gùi chú ý nhiều đến việc bỏ những phần non và chỉ lấy phần cứng của thân tre. Nếu không thận trọng trong quá trình vót tre thì khi đan gùi sẽ bị xơ xước mất giá trị thẩm mỹ. Sau khi vót xong tre đem ngâm, phơi ngoài trời nắng để chống sâu mọt", ông Cấu chia sẻ.
Cửa hàng bán gùi tại chợ phiên Phố Đoàn (Bá Thước).
Vì chiếc gùi hình trụ loe dần lên phần miệng nên để đan được đẹp cần nhiều kỹ thuật. Đầu tiên phải đan phần đáy hình vuông trước, sau đó đan chéo đôi nan trúc thứ tự từ đáy lên đến miệng khoảng 10 vòng lõi tre, phần cật đẹp phải hướng ra ngoài để tạo độ thẩm mỹ cho chiếc gùi. Đan một lượt thưa, trước khi gập xuống đáy, lấy một đoạn tre dày khoảng 1 cm, rộng 2,5 cm tạo thành hình tròn chồng lên miệng. Sau đó gập các nan lại xuyên qua các lỗ từ miệng xuống đáy, sao cho các lỗ hổng để gùi kín. Phần thừa của nan gập vào đáy tạo hai lớp giữ gùi vững chắc hơn. Ông Cấu nói: "Đan gùi quan trọng là phần đáy, đây cũng chính là phần khó đan nhất, người đan phải vững tay nghề để có thể gò cong phần đáy. Nhưng tốn thời gian nhất lại là đan thành gùi. Lúc đan, 2 ngón tay trỏ phải lật các thanh dọc đều và cẩn thận. Mỗi đường nan cũng phải kéo thật chặt để không bị hở. Thường để chiếc gùi bền lâu, đẹp mắt, tôi sẽ dùng thêm nan mây hoặc nan tre non để nhiều năm trên gác bếp đan ở dưới đáy và trên miệng".
Phần phụ của gùi là hai dây đeo được làm từ cây móc mọc trong rừng. Dây được đan giống như tết tóc của phụ nữ nhưng phức tạp hơn để khi đeo dù có nặng đến mấy cũng không thấy đau vai. "Thời gian hoàn thiện một chiếc gùi tùy vào mức độ khéo tay, sự nhanh nhẹn của người đàn ông. Một cái gùi lớn, tôi mất khoảng một tuần để hoàn thành, thường có giá từ 500.000 - 600.000 đồng, gùi nhỏ hơn từ 200.000 - 300.000 đồng. Việc đan gùi cũng giúp gia đình tôi có thêm nguồn thu nhập, trang trải cuộc sống", ông Cấu nói.
Phiên chợ Cán Cấu (Si Ma Cai, Lào Cai) Trong lúc đang say sưa với nồi thắng cố và rượu ngô Bắc Hà, anh bạn Ngô Xuân Sơn, nguyên Phó giám đốc Trung tâm VHTT huyện nói với tôi: Bác đưa các bạn lên đây mà không đi chợ Cán Cấu thì... hơi bị tiếc. Chợ cách đây 20km thôi... Tôi gật đầu đồng ý. Vậy là sáng hôm sau chúng tôi......