Lấp “lỗ hổng” thể chế bảo vệ cổ đông nhỏ
Bảo vệ cổ đông là một trong các tiêu chí tạo niềm tin cho nhà đầu tư. Song nhìn vào thực tế quản trị công ty ở Việt Nam, ông Phan Đức Hiếu, Phó Viện trưởng Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế Trung ương, thành viên Ban soạn thảo Dự thảo Luật Doanh nghiệp (sửa đổi) cho rằng, đây vẫn là điều “xa xỉ’. Trong đó, bảo vệ cổ đông nhỏ vẫn còn nhiều lỗ hổng cần được khắc phục.
Quản trị công ty tốt sẽ mang lại nhiều lợi ích, trong đó có lợi ích cho chính doanh nghiệp, giúp thu hút vốn đầu tư. Ảnh: Đức Cường
Cổ đông nhỏ nhưng bất cập không nhỏ
Tại Hội thảo “Vấn đề và giải pháp cải thiện khởi sự kinh doanh và bảo vệ cổ đông thiểu số” diễn ra ngày 28/2, tại Hà Nội, Ngân hàng Thế giới (WB) chỉ ra, bảo vệ cổ đông tốt là một trong những tiêu chí đánh giá quản trị công ty tốt. Khi luật pháp bảo vệ quyền và lợi ích của nhà đầu tư tốt mới khiến họ bỏ tiền đầu tư vào doanh nghiệp (DN). Và ngược lại, nếu môi trường đầu tư rủi ro thì họ sẽ mang tiền gửi tiết kiệm, không kích thích phát triển kinh tế.
Theo WB, có 5 tiêu chí để bảo vệ cổ đông tốt, đó là: Công khai hóa giao dịch có liên quan; trách nhiệm người quản lý; quyền của cổ đông; tỷ lệ sở hữu và kiểm soát công ty; minh bạch hóa thông tin. Áp các tiêu chí này vào thực trạng bảo vệ cổ đông ở Việt Nam, các chỉ số đều rất thấp so với các nước được đánh giá.
Theo ông Phan Đức Hiếu, cải cách thể chế để bảo vệ nhà đầu tư là rất quan trọng, bởi quản trị công ty tốt sẽ mang lại nhiều lợi ích. Song quản trị công ty ở Việt Nam rất có vấn đề. Lợi ích của quản trị tốt chưa được nhận thức đầy đủ.
Trưởng ban Pháp chế thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Đậu Anh Tuấn đánh giá, hơn 20 năm Luật DN được ban hành, rào cản gia nhập thị trường cho DN ngày càng được cắt giảm, nhưng quản trị công ty chưa thay đổi nhiều. “Chúng ta có cập nhật thông lệ tốt, nhưng thực tế chất lượng quản trị chưa cao. Các công ty TNHH, công ty cổ phần hầu như không có chất lượng quản trị như các nước. Nhìn rộng hơn, DN vẫn huy động vốn qua ngân hàng, tỷ lệ huy động vốn cổ đông còn ít. Nhà đầu tư nước ngoài không tin tưởng vào góp vốn”, ông Tuấn nói.
“Rà soát cho thấy, có 6 lỗ hổng lớn về thể chế bảo vệ cổ đông thiểu số”, ông Hiếu cho biết. Điển hình là quyền của cổ đông. Thực tế là cổ đông muốn đầu tư tiền vào công ty nhưng lại không có quyền tiếp cận thông tin để biết DN hoạt động ra sao. Bởi hiện pháp luật về vấn đề này quy định, để xem xét, trích lục sổ biên bản và các nghị quyết của HĐQT, hợp đồng, giao dịch phải thông qua HĐQT… thì phải sở hữu ít nhất 10% tổng số cổ phần DN. Ngoài ra, pháp luật còn quy định, cổ đông phải sở hữu cổ phần 6 tháng liên tục. “Đây là một trong những điều hoàn toàn không hợp lý”, ông Hiếu nhấn mạnh.
Hơn nữa, trong quyền của cổ đông, qua rà soát phát hiện cổ đông có thể bị rút tiền. Cổ đông đầu tư tiền vào công ty nhưng họ không có quyền quyết định ngân sách cho HĐQT và người quản lý. Theo quy định hiện hành, HĐQT chỉ phải báo cáo trong cuộc họp thường niên thông báo chi bao nhiêu tiền và đề nghị không chia cổ tức…
Làm gì để quản trị công ty tốt, bảo vệ cổ đông nhỏ?
Video đang HOT
Theo đánh giá của các chuyên gia kinh tế, quản trị công ty tốt khó có được trong ngày một ngày hai mà đó là một quá trình dài. Tuy nhiên, theo ông Hiếu, khung khổ pháp luật chỉ là một yếu tố, điều quan trọng hơn là phải nâng cao nhận thức để DN hiểu rằng quản trị tốt chính là vì lợi ích của DN.
Để bảo vệ cổ đông nhỏ, Dự thảo Luật DN (sửa đổi) đang được Bộ Kế hoạch và Đầu tư tiếp tục hoàn thiện đã kiến nghị giải pháp nâng cao cơ chế bảo vệ cổ đông. Chẳng hạn như mở rộng quyền, phạm vi của cổ đông, nhóm cổ đông trong việc tiếp cận thông tin về hoạt động của công ty; minh bạch hóa thông tin; công khai hóa giao dịch liên quan…
Ông Đậu Anh Tuấn cho rằng, để quản trị tốt không thể chỉ kỳ vọng vào Luật DN, bởi để nâng tầm quản trị công ty, nên có chương trình kèm theo thúc đẩy quản trị công ty tốt theo thông lệ quốc tế, qua đó thu hút được nhiều nhà đầu tư hơn.
Việt Anh
Theo baodauthau.vn/
Tình huống hy hữu doanh nghiệp "ghi nhầm" vốn tỷ USD và bài học về Luật Doanh nghiệp
Tình huống hy hữu doanh nghiệp ghi nhầm vốn điều lệ lên tới 144.000 tỷ đồng, tương đương 6,3 USD và những lo ngại về sự dễ dàng của thủ tục đăng ký doanh nghiệp đang cho thấy những công cụ giám sát doanh nghiệp của bên thứ ba theo Luật Doanh nghiệp có vẻ chưa thành thói quen bắt buộc trong kinh doanh.
Quyền và trách nhiệm người thành lập doanh nghiệp
Cho tới điểm này, trường hợp doanh nghiệp đăng ký vốn điều lệ lên tới 6,3 tỷ USD gây xôn xao suốt tuần qua đã khép lại. Sẽ không có một siêu doanh nghiệp mới nào xuất hiện bất ngờ vì người đăng ký chia sẻ là đi ghi nhầm và sẽ làm thủ tục giải thể.
Nhưng các câu chuyện, thắc mắc xung quanh tình huống hy hữu này chưa dừng lại. Thậm chí, đang có câu hỏi phải chăng doanh nghiệp ra đời quá dễ dàng là nguyên do của các vụ lừa lọc, làm ăn phi pháp...
"Đó là hiện tượng bình thường trong kinh tế thị trường, nhìn ở góc độ quyền kinh doanh của người dân. Người dân được quyền làm những gì pháp luật không cấm và chịu trách nhiệm trước pháp luật các hành vi của mình", ông Nguyễn Đình Cung, nguyên Viện trưởng Viện Nghiên cứu kinh tế Trung ương (CIEM) chia sẻ quan điểm.
Theo quy định của Luật Doanh nghiệp, đăng ký kinh doanh là thủ tục hành chính đầu tiên mà doanh nghiệp phải thực hiện khi tiến hành các hoạt động kinh doanh. Nói một cách dễ hiểu, giấy đăng ký kinh doanh được coi là giấy khai sinh của một doanh nghiệp.
Theo Luật Doanh nghiệp năm 2014, Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp là văn bản hoặc bản điện tử mà Cơ quan đăng ký kinh doanh cấp cho doanh nghiệp ghi lại những thông tin về đăng ký doanh nghiệp.
Hồ sơ đăng ký doanh nghiệp cũng được giản thiểu tối đa, loại bỏ các giấy tờ mang tính tiền kiểm như chứng chỉ hành nghề; không phải ghi ngành nghề đăng ký kinh doanh, doanh nghiệp được quyền lựa chọn về hình thức và số lượng con dấu...
Doanh nghiệp có trách nhiệm chịu trách nhiệm về tính trung thực, chính xác của thông tin kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp và các báo cáo; trường hợp phát hiện thông tin đã kê khai hoặc báo cáo thiếu chính xác, chưa đầy đủ thì phải kịp thời sửa đổi, bổ sung các thông tin đó.
Luật Doanh nghiệp cũng quy định nếu nội dung kê khai trong hồ sơ đăng ký doanh nghiệp là giả mạo, doanh nghiệp sẽ bị thu hồi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các vi phạm khác sẽ được xử lý theo các văn bản quy phạm pháp luật liên quan.
Bài học cho các bên liên quan
Nếu không bị xới tung, doanh nghiệp tỷ đô vốn điều lệ có thể là nguồn cơn cho các vụ lừa đảo, doanh nghiệp ma...
Thậm chí, có vị chuyên gia kinh tế cho rằng, cần siết chặt việc kê khai vốn ngay từ đầu. Bởi việc kê khai dễ dàng này khiến tình trạng lừa đảo, phá sản, kinh doanh bết bát phổ biến. Ông này cũng lo nếu các doanh nghiệp khai khống vốn không được giám sát chặt chẽ thì rất dễ xảy ra lừa đảo đối tác, vay vốn ngân hàng dẫn đến nợ xấu. "Trách nhiệm này thuộc về cơ quan quản lý nhà nước", vị chuyên gia nói.
Trong giới luật sư, cũng có người lo ngại việc doanh nghiệp có thể "trưng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh với số vốn điều lệ lớn để lừa đảo..." hoặc "nếu để sau 90 ngày mới biết doanh nghiệp có nộp đủ vốn điều lệ theo cam kết không thì doanh nghiệp đã kịp lừa đảo xong"...
Câu hỏi là, nếu việc xác nhận vốn điều lệ được cơ quan quản lý nhà nước nào đó đứng ra thực hiện, có giải được mối lo ngại doanh nghiệp sẽ không lừa đảo hay không, có đảm bảo doanh nghiệp không đóng cửa, phá sản không?
Phải nói ngay, các ý kiến này đều đã được quy định từ trước khi Luật Doanh nghiệp 1999 được thông qua. Khi đó, doanh nghiệp muốn kinh doanh phải được cơ quan quản lý nhà nước cho phép mới được làm. Việc cho phép thông qua các văn bản xét duyệt, trong đó có nguồn vốn của doanh nghiệp.
Nhưng khi đó, doanh nghiệp ra đời khó khăn, nhưng không đảm bảo được tất cả đều làm ăn đúng theo pháp luật.
"Thông tin về đăng ký kinh doanh, các lần thay đổi giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh được đăng tải công khai trên Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp. Ngân hàng, đối tác hay bất cứ bên thứ ba nào cũng có thể kiểm tra tính pháp lý của các thông tin đăng ký kinh doanh của doanh nghiệp; phải nắm rõ quy định của pháp luật về việc doanh nghiệp chỉ được bắt đầu kinh doanh sau khi hoàn thành nghĩa vụ về góp vốn điều lệ, các yêu cầu về chứng chỉ hành nghề, điều kiện kinh doanh... để xác định đối tác của mình có đủ cơ sở pháp lý để hoạt động không", vị chuyên gia phân tích.
Trên thực tế, các quyết định cho vay của ngân hàng cũng như các quyết định hợp tác làm ăn được dựa trên đánh giá độc lập của chính ngân hàng, đối tác đó về doanh nghiệp, năng lực thực tế của doanh nghiệp qua nhiều nguồn, trong đó nội dung trong giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh chỉ là một nguồn...
Những tranh cãi tương tự cũng từng xảy ra khi Luật Doanh nghiệp 2014 cho phép bỏ yêu cầu đăng ký ngành nghề kinh doanh, chính thức loại bỏ tội kinh doanh trái phép; cho doanh nghiệp có quyền quyết định về hình thức, số lượng và nội dung con dấu của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Thói quen coi con dấu là pháp lý, thay vì chữ ký của người đại diện theo pháp luật của doanh nghiệp khiến nhiều người cho rằng, nếu không có quản lý nhà nước về con dấu doanh nghiệp, như trước kia là Bộ Công An, thì sẽ xảy ra tình trạng lừa đảo...
Thời điểm này, cũng đang có đề nghị bỏ hẳn quy định về con dấu doanh nghiệp khi thói quen coi trọng dấu đỏ đã bắt đầu thay đổi. Khi đó, con dấu doanh nghiệp gần như mang ý nghĩa nhận diện là chính và các đối tác, khách hàng, chủ nợ... buộc phải có thói quen sử dụng các công cụ kiểm tra tính pháp lý của các thông tin về doanh nghiệp thông qua Hệ thống thông tin doanh nghiệp quốc gia cũng như các nguồn thông tin khác trước khi bắt tay vào làm ăn.
Như vậy, với các công cụ quản lý nhà nước theo cơ chế hậu kiểm, Nhà nước chỉ là một bên, chứ không phải là cơ quan duy nhất trong việc theo dõi và giám sát doanh nghiệp. Các bên có liên quan như chủ nợ, đối tác, khách hàng, các cổ đông, những người quản lý... cũng có trách nhiệm giám sát doanh nghiệp đó.
Cổng thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp cung cấp trực tuyến nhiều loại thông tin về doanh nghiệp, như Giấy chứng nhận đăng ký doanh nghiệp, thông tin lịch sử doanh nghiệp trong 03 năm, báo cáo tổng hợp về người thành lập, quản lý doanh nghiệp trong 3 năm... cũng như thông tin về vi phạm của doanh nghiệp theo quy định của pháp luật.
Các sản phẩm dịch vụ thông tin tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động hợp tác, kinh doanh của doanh nghiệp, giúp các cá nhân, doanh nghiệp tiếp cận và quản lý khách hàng tốt hơn, mở rộng thị trường, tìm hiểu định hướng, xu hướng kinh tế thị trường, hạn chế các rủi ro trong giao dịch thương mại, dân sự, tổng hợp báo cáo... đồng thời, nâng cao sự giám sát của toàn xã hội đối với cộng đồng doanh nghiệp và hướng tới sự minh bạch của môi trường kinh doanh tại Việt Nam.
Khánh An
Theo baodautu.vn
Cải thiện khởi sự kinh doanh, tăng động lực cho doanh nghiệp Trong thời gian qua, Luật Doanh nghiệp và các nghị định hướng dẫn thi hành đã có tác động tích cực trong tạo lập môi trường kinh doanh thuận lợi, bình đẳng, thúc đẩy thành lập doanh nghiệp. Tuy nhiên, bên cạnh những mặt tích cực, một số nội dung của Luật Doanh nghiệp không còn phù hợp. Doanh nghiệp lớn phải có...