“Lao động chui làm mất hình ảnh đất nước”
“Sang bên kia gây mất đoàn kết, để rồi mất hình ảnh không chỉ riêng lao động, mà còn mất hình ảnh đất nước Việt Nam”.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng phát biểu như vậy tại phiên chất vấn Bộ trưởng Lao động – Thương binh – Xã hội (LĐTBXH) Phạm Thị Hải Chuyền sáng 14/6.
Quản chặt công ty xuất khẩu lao động
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng cho rằng, xuất khẩu lao động là chủ trương ngắn hạn, mang tính thời vụ. Nhưng trong điều kiện hiện nay, không phải là thời gian một, hai năm, mà còn dài dài…
Chủ tịch Quốc hội nhấn mạnh vai trò của xuất khẩu lao động, để giải quyết đời sống, giảm nghèo ở trong nước, tăng thu nhập. Ngoài ra, xuất khẩu để rèn luyện, tăng kỹ năng lao động, trở về làm công nghiệp hóa, hiện đại hóa nước ta tốt hơn.
Tuy nhiên, Chủ tịch Quốc hội đặt vấn đề, cần bảo đảm xuất khẩu lao động có chất lượng, có thu nhập, thực hiện được pháp luật nước ta và nước bạn thật tốt.
Gần đây, nhiều công ty xuất khẩu lao động mở ra, cần quản lý chặt loại hình công ty này. Đi theo đó, quản lý cho được xuất khẩu lao động chui, tìm cách móc ngoặc visa, đưa lao động đi sang nước ngoài.
“Sang bên kia gây mất đoàn kết, để rồi mất hình ảnh không chỉ riêng lao động, mà còn mất hình ảnh đất nước Việt Nam”, Chủ tịch Quốc hội bày tỏ.
Chủ tịch Quốc hội Nguyễn Sinh Hùng
Theo Chủ tịch Quốc hội, cần tổ chức liên kết đơn vị xuất khẩu lao động – đào tạo lao động và nước ngoài để tổ chức đào tạo ngay trong nước, bảo đảm chất lượng trước khi xuất khẩu.
Đào tạo cho người lao động biết, nghề, tiếng, văn hóa, và pháp luật của nước bạn. Nếu bốn việc này không làm tốt, xuất khẩu sẽ thất bại.
Chủ tịch Quốc hội cũng cho rằng, phải quản lý lao động ở nước ngoài tốt, để có bất cứ chuyện gì, nước ta chịu trách nhiệm trước nhà nước của họ.
Phải biết… mới đi
Tại phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Phạm Thị Hải Chuyền, Đại biểu Ly Kiều Vân ở Quảng Trị đặt vấn đề người Việt Nam làm việc bất hợp pháp tại nước ngoài.
Hiện nay, Bộ LĐTBXH mới đang giải quyết số lao động làm việc ở Ả rập Xê út. Còn đối với các nước khác, bộ cho rằng đều thực hiện các biện pháp để người lao động được hưởng các quyền và lợi ích hợp pháp. Trong khi đó việc xử lý và giải quyết vấn đề này ở các nước là hoàn toàn khác nhau. Xin Bộ trưởng cho biết hướng giải quyết về vấn đề này như thế nào?
Bộ trưởng Phạm Thị Hải Chuyền nhắc lại câu hỏi: Chắc đại biểu muốn hỏi trách nhiệm của Bộ LĐTBXH trong quản lý lao động ở nước ngoài và quan điểm của Bộ về xử lý vấn đề đối với người lao động ở nước ngoài thế nào?
Bà Chuyền cho biết, hiện nay nước ta có khoảng 500 nghìn lao động đang làm ở các nước. Thời điểm này, chỉ có 8 ban quản lý lao động ở các nước, phần đông là các cơ quan đại diện ngoại giao ở các nước có trách nhiệm quản lý, bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
Video đang HOT
Trong quy định về đưa lao động Việt Nam đi làm việc có thời hạn ở nước ngoài, luật đã quy định rất rõ trách nhiệm của doanh nghiệp.
Bộ trưởng Bộ LĐTBXH Phạm Thị Hải Chuyền
Doanh nghiệp phải đưa người ta đến, thực hiện theo đúng hợp đồng, khi người lao động có vấn đề bản thân doanh nghiệp đó phải tự tháo gỡ đối với doanh nghiệp anh đã ký hợp đồng. Nếu không thực hiện được phải báo cáo đại sứ quán hoặc tổ chức đại diện của Việt Nam tại nước ngoài để cùng phối hợp, xem xét, giải quyết.
Chính vì vậy, trong những năm gần đây tình trạng lao động không được thực hiện đầy đủ các hợp đồng cũng như lao động do bị một số chủ có việc làm không đúng chúng ta đều có can thiệp và cơ bản đều được giải quyết và xử lý.
Nhưng thực trạng một số người lao động không đi theo đường quy định. Chính vì vậy không cấp phép nên không được theo dõi, không biết doanh nghiệp nào.
Bộ trưởng khuyên người lao động khi quyết định mang sức lao động của mình đi làm cho tổ chức hoặc cá nhân nước ngoài, phải biết họ là ai và quyền lợi của mình đến đâu hãy đi. Nếu khi đến nước bạn làm việc mà không thực hiện được hợp đồng, lúc đó rất khó khăn và Chính phủ không muốn điều đó.
Theo 24h
Những phận người lao động "chui" trên đất Nga (Kỳ 2)
Tôi như một cai ngục của một buồng trong một trại giam 2000m2 và bản thân lại cũng chính là tù nhân.
Khu nhà máy bỏ hoang là nơi các xưởng may đen tập kết sản xuất
Sau 10h bay tôi đặt chân xuống sân bay Matxcơva, cảm giác lạnh là cái đầu tiên ùa vào cơ thể cảm nhận được, vì là giữa tháng 11 nên tuyết rơi trắng xoá.
Lần đầu tiên đi ra nước ngoài kiểu này nên mọi thứ với tôi thật bỡ ngỡ. Tôi chỉ biết đi theo đoàn người Việt ra cửa kiểm tra của hải quan hàng không Nga.
Có một điều mà ngay từ đầu đã được nhận thấy đó là những người Việt phải đi vào một lối riêng kiểm tra, còn những người nước khác được đi ra một lối khác có phần thông thoáng hơn.
Tôi cũng không quan tâm lắm, vì chỉ nhanh nhanh muốn ra ngoài để tìm người anh, tên là Bình, con của bạn bố tôi đang làm ăn ở bên này.
Trên đường đi, anh Bình nói với tôi là do hiện tại chợ đang có vấn đề nên tôi về tạm xưởng may anh ở (trước đó khi gặp nhau ở Việt Nam anh nói là sang bên Nga ra chợ buôn bán cùng anh).
Anh Bình chở tôi đến một khu nằm ở ngoại ô Matxcơva (sau này tôi mới biết đây là khu nhà máy cũ bỏ hoang một chỗ nơi ở Malakhốtca) nói là thuê mặt bằng ở đây làm xưởng may.
Xưởng may làm ở trên tầng 2 và toàn bộ tầng 1 được khoá kín, có một thang máy được chủ mặt bằng (ở đây gọi là chủ ốp) cắt cử người trông coi ngày đêm không cho công nhân tự ý ra ngoài, chỉ có chủ xưởng may là được đi.
Khác hẳn không khí đang rất lạnh ngoài trời, khi lên tầng 2 thì không khí ngột ngạt nóng bức và khó thở. Tôi đang mặc 3,4 cái áo mà vẫn thấy lạnh khi ở ngoài trời thì những người trong ốp chỉ mặc áo phông và quần soóc.
Diện tích tầng 2 khoảng 2000m2 được chia làm nhiều ô có vách ngăn, mỗi ô được gọi là một xưởng và có khoảng gần 20 xưởng. Công nhân ăn uống sinh hoạt ngay trong xưởng.
Anh Bình dẫn tôi qua mấy xưởng rồi mới đến xưởng mình. Cái đầu tiên đ.ập vào mắt tôi đó là sự chật chội và cách bố trí tận dụng không để một khoảng trống đến mức khó tin.
Xưởng được đóng thêm 1 cái gác, bên dưới gác là chỗ kê khoảng 15 cái máy may các loại, 1 bàn phụ, 1 chỗ nhỏ tận dụng để phơi quần áo, 1 cái tủ lạnh để chứa thức ăn 3,4 ngày cho anh em công nhân (có khi là cả tuần) vì thỉnh thoảng khi hết chủ mới mua thức ăn chứ không phải ngày nào cũng mua. Thức ăn chủ yếu là đồ đông lạnh.
Bên trên gác là chỗ để bàn cắt vải và chỗ ngủ cho công nhân, bên dưới bàn cắt là chỗ chứa vải, bông đủ loại.
Chỗ ngủ của mọi người được thiết kế làm 2 tầng phù hợp với diện tích hạn hẹp, chia ra nhiều cái được gọi cái tên mỹ miều là "Phòng". Mỗi phòng rộng khoảng 1m, dài 2m, là nơi cất giữ tất cả đồ đạc có thể có và là nơi nghỉ ngơi của 1 đến 2 người (thường 2 người/phòng).
Một khu xưởng may đen có quy mô lớn
Hầu hết các xưởng may dạng "ĐEN" này đều bố trí tương tự như nhau chứ không riêng gì xưởng của anh Bình.
Nói là đen vì nó không được pháp luật nước Nga công nhận, và hầu hết thì những người sống ở đây đều không có giấy tờ được sinh sống hợp lệ chứ đừng nói là có giấy tờ được lao động ở Nga.
Anh Bình bảo tôi ở lại xưởng may trông coi làm việc phụ cho anh những lúc anh không có ở đây vì lúc này chợ đang có vấn đề chưa ra được.
Tôi miễn cưỡng vì không đúng với dự tính của mình nhưng cũng đành gượng gạo chấp nhận vì cũng không thể làm gì khác được.
Thấy trong túi tôi có hơn 400$ gia đình cho được chị Hương (vợ anh Bình) kêu giữ hộ vì bảo ở trong ốp này không nên cầm t.iền, công an mà truy quét là bị thu mất, cầm ít t.iền rúp mua lặt vặt có mất cũng không tiếc.
Tôi chỉ quen mỗi 2 anh chị nên chả lẽ không tin nên đưa cho chị mà không suy nghĩ gì (sau này mới thấy sai lầm).
Trong ốp cũng có chỗ bán hàng khô lặt vặt cho công nhân nhưng giá đắt hơn ở ngoài nhiều và công nhân thì cũng chỉ thỉnh thoảng mua những đồ cần thiết nhất vì làm gì có t.iền.
Vậy là từ hôm ấy tôi bắt đầu chính thức sống cuộc sống tù túng cùng với mọi người Việt ở trong ốp này và làm nhiệm vụ trông coi mọi người trong xưởng cho anh Bình vì sợ mọi người bỏ trốn.
Lý do vì sao thì từ từ tôi cũng nhận ra. Bởi sau một thời gian nói chuyện và tìm hiểu thì tôi mới biết những công nhân may này là "công cụ kiếm tiền" của người chủ nên không thể để mất.
Hầu hết toàn những người trốn đi từ người chủ cũ "đánh" mình từ Việt Nam qua, có người vẫn còn nợ t.iền chưa trả được chủ cũ, có người thì trả được nhưng chủ cũ không cho đi...
Hàng ngày, tôi phải làm những công việc phụ may và quan trọng chính là để mắt chú ý tới công nhân may không cho bỏ trốn.
Tôi như một cai ngục của một buồng trong một trại giam 2000m2 và bản thân lại cũng chính là tù nhân.
Thỉnh thoảng tôi được đi ra ngoài chợ Chim (Sađavốt) hoặc chợ LIU (Liublinnô) cùng xe anh Bình để giao hàng gọi là thay đổi không khí. Như vậy cũng là hạnh phúc lắm rồi so với hàng trăm người công nhân ở đây cả tháng đôi khi cả năm không biết đến bầu trời bên ngoài.
Khu xưởng may mà tôi làm việc
Cuộc sống ở đây dạy cho tôi cách tồn tại, ăn uống và nghỉ ngơi bất cứ khi nào có thể vì thời gian ở trong này không phân biệt ngày đêm. Công nhân may được chia làm 2 ca, mỗi ca 12 tiếng lên điện bật và máy móc hoạt động 24/24.
Ngoài thợ may ra thì mỗi xưởng còn có 1 kỹ thuật, 1 hoặc một vài vài thợ cắt, thợ phụ tuỳ vào số lượng của thợ may từng xưởng và một người nấu ăn.
Có một bếp ăn tập thể để các xưởng nấu ăn rồi đem về xưởng mình ăn, ăn chủ yếu là trên bàn cắt.
Có 2 phòng vệ sinh và 2 phòng tắm tập thể chia đều cho nam và nữ, đôi khi mọi người còn phải chờ đợi nhau rất lâu vì các phòng này thiết kế chỉ cho 4 người 1 lúc mà trong khi đó lúc tan ca làm việc thì có cả trăm người có nhu cầu sử dụng.
Ai ai cũng mau chóng muốn tắm rửa nghỉ ngơi sau ít nhất 12h làm việc (đôi khi phải tăng ca làm đến 18-20 tiếng / ngày) để còn có sức để làm tiếp vì không thể tự ý nghỉ làm sẽ có nhiều hình thức kỷ luật khắt khe, quan trọng nhất là hình thức trừ t.iền lương.
Vậy là mọi người như cái máy làm việc - ăn nghỉ - làm việc, liên tục mà không có một nhu cầu hay đòi hỏi khác về cuộc sống. Mà thực tế là có đòi hỏi thì cũng không được hoặc rất khó được đáp ứng.
Mọi người làm việc miệt mài như vậy chỉ mong đến tháng hy vọng được lấy t.iền vì đâu phải chủ nào cũng trả t.iền đúng hạn cho công nhân. Bị chậm lương vài tháng hoặc không được trả là điều bình thường.
Cái mọi người công nhân sống ở đây được hưởng chỉ là chủ xưởng lo cho có chỗ ăn, chỗ ở không sợ c.hết đói c.hết rét ở ngoài đường, t.iền ăn ở cuối tháng sẽ được trừ vào lương làm được (khoảng 6.000rúp/tháng, tương đương hơn 4 triệu VNĐ).
T.iền lương của công nhân được trả theo sản phẩm. Người làm nhiều có thể kiếm được 30.000 rúp/tháng (bằng khoảng 20 triệu đồng), trung bình từ 10.000 - 20.000 rúp/tháng. Tuy nhiên, đây chỉ là lý thuyết. Đến lúc trả t.iền thực, chủ luôn tìm mọi lý do để trừ t.iền của công nhân.
Bữa ăn của mọi người gồm 1 món chính, 1 món rau hoặc canh và cơm. Món ăn chính thường là thịt lợn, thịt gà đông lạnh hoặc cá. Món rau thường là rau bắp cải đá và nước rau luộc (gọi là đá vì nó cứng hơn rau bắp cải ở Việt Nam). Còn món canh thường là canh khoai tây cà rốt, canh bí đao hoặc canh trứng, thỉnh thoảng cũng có rau từ Việt Nam như rau muống, rau cần...
Vì thức ăn trên không đủ chất cho mọi người nên ở đây ai ai cũng phải đặt chủ xưởng mua thêm nào là bún, mì tôm, miến gói để ăn thêm. Mỗi lần chủ đem hàng khô về là cả xưởng lại vui mừng khôn xiết vì không lo bị đói.
Còn nữa...
Theo 24h
Thăm hỏi, động viên lao động Việt Nam bị tai nạn ở Thái Lan Đại sứ quán Việt Nam tại Thái Lan ngày 7-5 đã cử đoàn cán bộ tới bệnh viện Rayong để thăm hỏi, động viên và tặng quà hỗ trợ cho các nạn nhân Việt Nam bị thương trong vụ tai nạn giao thông thảm khốc ở tỉnh Chanthaburi, miền Đông Thái Lan hôm 5-5, làm hai lao động người Việt Nam t.hiệt m.ạng...