Lãnh đạo chất lượng cao sao văn bản chất lượng thấp?
Có thể thấy mọi số liệu đều chứng minh đội lãnh đạo Việt Nam chất lượng cao, tuy nhiên cũng chính vì thế mà người ta lại càng không hiểu nổi tại sao chất lượng văn bản nước ta hiện nay lại thấp đến vậy?
Như chúng ta đã biết đội ngũ cán bộ, công chức lãnh đạo quản lý là lực lượng tham mưu cho Đảng và Chính phủ trong việc hoạch định chiến lược, kế hoạch, chủ trương, chính sách, bước đi, giải pháp thực hiện nhiệm vụ phát triển kinh tế – xã hội của các ngành, các lĩnh vực và các địa phương. Đồng thời đội ngũ này cũng là những người lãnh đạo, chỉ đạo tổ chức thực hiện các nội dung, nhiệm vụ của các cơ quan, đơn vị công lập.
Có thể nói rằng không một lĩnh vực, một nội dung, nhiệm vụ nào lại không cần đến đội ngũ cán bộ, công chức – lực lượng quan trọng, đi đầu trong việc tham mưu, đề xuất và lãnh đạo tổ chức thực hiện các chế độ chính sách nhà nước.
Chính vì vai trò và tầm quan trọng vô cùng lớn của đội ngũ lãnh đạo mà có lẽ không ít người Việt Nam đã cảm thấy tự hào về đội ngũ cán bộ chất lượng cao của mình.
Không chỉ khẳng định mình qua các kỳ thi công chức nghiêm túc, để sáng lọc những người có năng lực và trình độ cao, đội ngũ lãnh đạo còn chứng minh được năng lực của mình qua số lượng lớn các học hàm, học vị.
Theo thống kê của Bộ Khoa học – Công nghệ , hiện nay cả nước có một đội ngũ trên 9.000 giáo sư và phó giáo sư, 24.300 tiến sĩ và 101.000 thạc sĩ. So với năm 1996 đội ngũ này tăng trung bình 11,6%/năm, trong đó tiến sĩ tăng 7%/năm, thạc sĩ tăng 14%/năm.
Những con số này quả là vô cùng đẹp, dễ dàng thuyết phục bất kỳ ai kể cả những người khó tính nhất trong việc tin vào năng lực lãnh đạo, trình độ chuyên môn nghiệp vụ của cán bộ công chức nước ta.
Tuy nhiên, trong khi chất lượng đội ngũ lãnh đạo đã được cộp mác chất lượng cao người ta lại không khỏi băn khoăn, thắc mắc tại sao thời gian gần đây lại có hàng loạt văn bản của Nhà nước, được các Bộ ngành, các cơ quan chức năng ban hành lại có chất lượng thấp và thiếu tính thực tế đến vậy?
Video đang HOT
Thời gian gần đây hàng loạt văn bản ‘trên trời’ được ban hành
Trên thực tế, chỉ trong 8 tháng qua, chúng ta đã có 4.178 / 252.798 văn bản quy phạm pháp luật chưa bảo đảm tính hợp pháp do các cơ quan chức năng từ cấp Trung ương tới các cấp địa phương ban hành. Con số ấy, được đưa ra tại một hội nghị tổng kết công tác của ngành Tư pháp diễn ra gần đây đã khiến người nghe phải giật mình.
Có thể kể ra đây một số ví dụ mà ai nghe đến cũng phải thở dài ngán ngẩm. Mới đây nhất, theo dự thảo Thông tư liên tịch quy định tiêu chuẩn sức khỏe người lái xe, khám sức khỏe định kỳ đối với người lái xe ô tô…do Bộ Y tế và Bộ GTVT ban hành, để tham gia thi lấy bằng lái ô tô, xe máy, người dân cần phải vượt qua 83 tiêu chuẩn về sức khỏe.
Trong đó, có những tiêu chuẩn kỳ lạ như: Muốn được cấp giấy chứng nhận sức khỏe để lái xe máy 50 cm3 trở lên (bằng lái A1, B1) thì bộ ngực phải đảm bảo có số đo không dưới 72 cm đã khiến dư luận không khỏi xôn xao thắc mắc. Sự việc càng được chú ý hơn khi chính quy định này đã được bộ Y tế đưa ra vào năm 2008 nhưng do sự phản ứng quá lớn từ phía dư luận và bị Cục Kiểm tra văn bản quy phạm pháp luật (Bộ Tư pháp) tuýt còi nên đã nhanh chóng bị hủy bỏ.
Trước đó không lâu là quy định bổ sung đối tượng ưu tiên tuyển sinh đại học, cao đẳng hệ chính quy đối với Bà mẹ Việt Nam anh hùng và người hoạt động cách mạng từ thời Cách mạng Tháng Tám 1945 khi dự thi đại học. Mặc dù cơ quan ban hành đã cố lý giải việc này là sự thể hiện đạo lý uống nước nhớ nguồn nhưng nó đã được rút lại ngay sau đó sau vô số ý kiến phản bác và chỉ trích sự thiếu thực tế và không cần thiết của quy định này.
Hay Dự thảo Nghị định xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực an ninh, trật tự, an toàn xã hội; phòng, chống bạo lực gia đình… Dự thảo này quy định phạt đến 1 triệu đồng nếu vợ hoặc chồng có hành vi kiểm soát chặt chẽ nguồn tài chính của chồng (vợ) hoặc nguồn tài chính chung của gia đình nhằm tạo cho người đó cũng như thành viên gia đình sự phụ thuộc về tài chính; phạt từ 1 triệu đến 1,5 triệu đồng đối với chồng có hành vi lăng mạ, chửi bới, chì chiết vợ hay con cái, thành viên gia đình hoặc ngược lại…
Gần như ngay lập tức hàng loạt phân tích từ phía dư luận xã hội đã chỉ ra những điểm bất hợp lý, thiếu tính khả thi của các quy định trái khoáy này. Chẳng hạn, pháp luật quy định tài sản trong hôn nhân là tài sản chung của vợ chồng, vì thế tiền nộp phạt cũng là lấy từ túi tiền gia đình mà ra và người bị phạt là vợ hay chồng cũng bị thiệt hại lây. Việc bị phạt cũng sẽ khiến vợ chồng bất hòa, nguy cơ ảnh hưởng đến trật tự, an toàn xã hội… Trước phản ứng trái chiều mạnh mẽ của dư luận, đại diện cơ quan soạn thảo cho biết sẽ bổ sung, sửa đổi những điểm không hợp lý, khó thực hiện của quy định này
Tất nhiên, không phải toàn bộ 4.178 văn bản bị ngành Tư pháp “thổi còi” đều thiếu tính khả thi và không phù hợp với thực tiễn, có thể có những văn bản chỉ mắc những sai sót nhỏ, mang tính kỹ thuật. Tuy vậy, dẫu phải thu hồi, hay chỉnh sửa nội dung, cũng đều gây lãng phí ngân sách.
Quan trọng hơn, việc ban hành văn bản quy phạm pháp luật thiếu tính khả thi, không phù hợp với thực tiễn còn ảnh hưởng tới các tầng lớp nhân dân, là tác nhân trực tiếp làm suy giảm niềm tin của công chúng vào năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức và bộ máy hành chính Nhà nước. Văn bản quy phạm pháp luật có giá trị pháp lý càng cao, tầm ảnh hưởng tới người dân càng lớn.
Và vì thế người dân lại một lần nữa đâu đầu suy tư, thắc mắc về hiện tượng trái khoáy ở Việt Nam, tất cả đều đúng sao kết quả vẫn sai, lãnh đạo chất lượng cao mà sao văn bản chất lượng lại thấp đến vậy?
Theo Phunutoday
Một số vấn đề về Hội đồng Hiến pháp
Thực hiện các nghị quyết của Trung ương Đảng, Quốc hội về sửa đổi Hiến pháp năm 1992, thời gian qua, cán bộ, đảng viên và đông đảo các tầng lớp nhân dân đã nhiệt liệt hưởng ứng, tích cực tham gia góp ý vào việc sửa đổi Hiến pháp năm 1992. Hoạt động lấy ý kiến nhân dân về Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992 đã thực sự là đợt sinh hoạt chính trị dân chủ, sâu rộng trong toàn xã hội.
Tiếp tục kế thừa Hiến pháp 1992, đưa đất nước tiến lên vững chắc, phồn vinh
Với trách nhiệm công dân nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, tôi đồng tình với các ý kiến cho rằng với điều kiện cụ thể của nước ta, không cần quy định Hội đồng Hiến pháp trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992, mà tiếp tục hoàn thiện cơ chế bảo vệ Hiến pháp hiện hành, tăng cường trách nhiệm của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Hội đồng Dân tộc, các Ủy ban của Quốc hội và các cơ quan khác của Nhà nước trong việc bảo vệ Hiến pháp. Bởi lẽ, vấn đề bảo vệ Hiến pháp ở nước ta đã được quy định rất rõ và cụ thể ở tất cả các bản Hiến pháp được ban hành trong lịch sử. Đó là Hiến pháp năm 1946, Hiến pháp năm 1959, Hiến pháp năm 1980 và Hiến pháp năm 1992. Trong Hiến pháp năm 1992 hiện hành, các Điều 79, 84, 91, 103, 112, 114... đã quy định cụ thể về vấn đề bảo vệ Hiến pháp. Điều 84 Hiến pháp năm 1992 đã quy định: "Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: 1. Làm Hiến pháp và sửa đổi Hiến pháp, làm luật và sửa đổi luật; quyết định chương trình xây dựng luật, pháp lệnh; 2. Thực hiện quyền giám sát tối cao việc tuân theo Hiến pháp, luật và nghị quyết của Quốc hội..."; Điều 91 Hiến pháp năm 1992 quy định: "Ủy ban Thường vụ Quốc hội có những nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: ...3. Giải thích Hiến pháp, luật, pháp lệnh... 5. Giám sát việc thi hành Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Ủy ban Thường vụ Quốc hội; giám sát hoạt động của Chính phủ, Tòa án nhân dân tối cao, Viện kiểm sát nhân dân tối cao...".
Cụ thể hóa các quy định của Hiến pháp năm 1992, nhiều đạo luật đã được ban hành, trong đó có các quy định bảo vệ Hiến pháp, như: Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân, Luật Tổ chức Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân, Luật Hoạt động giám sát của Quốc hội, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật, Luật Ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Hội đồng nhân dân và Ủy ban nhân dân... Ví dụ: Điều 27 Luật Tổ chức Quốc hội quy định: "Ủy ban Pháp luật có nhiệm vụ và quyền hạn sau đây: ... 3. Bảo đảm tính hợp hiến, hợp pháp và tính thống nhất của hệ thống pháp luật đối với các dự án luật, dự án pháp lệnh trước khi trình Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội thông qua... 6. Giám sát văn bản quy phạm pháp luật của Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, văn bản quy phạm pháp luật liên tịch giữa các cơ quan nhà nước có thẩm quyền ở trung ương hoặc giữa cơ quan nhà nước có thẩm quyền với cơ quan trung ương của tổ chức chính trị - xã hội thuộc lĩnh vực Ủy ban phụ trách".
Như vậy, các quy định của Hiến pháp và các luật này đã giao nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp cho nhiều cơ quan đảm nhiệm, mà trách nhiệm cao nhất thuộc về Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ, các bộ, ngành, Tòa án, Viện kiểm sát, chính quyền địa phương các cấp, tổ chức chính trị, tổ chức chính trị - xã hội. Những quy định này rất chặt chẽ, cụ thể để kiểm tra, giám sát tính hợp hiến, hợp pháp trong các hoạt động và quyết định của các cơ quan, tổ chức và cá nhân.
Từ góc độ quán triệt thực hiện các quan điểm chỉ đạo của Đảng đối với việc nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992, Nghị quyết Hội nghị lần thứ hai Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về việc triển khai thực hiện chủ trương nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 đã xác định quan điểm sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992: "Tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản hiến pháp trước đây còn phù hợp; đồng thời, chỉ sửa đổi, bổ sung những vấn đề thực sự cần thiết, phù hợp với tình hình mới và những nội dung đã được Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XI của Đảng xác định"; Kết luận Hội nghị lần thứ năm Ban Chấp hành Trung ương Đảng (khoá XI) về tổng kết việc thi hành Hiến pháp năm 1992 và những nội dung cơ bản về sửa đổi, bổ sung Hiến pháp năm 1992 cũng chỉ rõ: "Tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản hiến pháp trước đây còn phù hợp. Chỉ sửa đổi những vấn đề đã rõ, được thực tiễn chứng minh là đúng, đã có đủ cơ sở, được sự thống nhất cao".
Quán triệt các quan điểm chỉ đạo trên của Đảng, cần tiếp tục kế thừa những quy định của Hiến pháp năm 1992 và các bản Hiến pháp trước đây, cũng như các quy định trong Luật Tổ chức Quốc hội, Luật Tổ chức Chính phủ, Luật Tổ chức Viện kiểm sát nhân dân, Luật Tổ chức Tòa án nhân dân... về cơ chế bảo vệ Hiến pháp đang còn phù hợp, mà không cần quy định Hội đồng Hiến pháp trong Dự thảo sửa đổi Hiến pháp năm 1992.
Thực tiễn thi hành Hiến pháp năm 1992 cho thấy, trong những năm qua, Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, Chủ tịch nước, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ... đã thực hiện có hiệu quả chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn mà Hiến pháp quy định, trong đó đã làm tốt nhiệm vụ bảo vệ Hiến pháp, pháp luật, góp phần quan trọng vào việc tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa. Nếu như thành lập thêm Hội đồng Hiến pháp thì rõ ràng sẽ chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ của Quốc hội, Ủy ban Thường vụ Quốc hội, các cơ quan của Quốc hội, Chính phủ... và phải sửa đổi các luật có liên quan, gây tốn kém, lãng phí.
Lê Minh
Theo ANTD
Chính sách "trên trời": Trách nhiệm Bộ trưởng Tư pháp? Nhiều đại biểu Quốc hội chất vấn trách nhiệm của Bộ trưởng Tư pháp trước những chính sách xa rời thực tế cuộc sống được ban hành trong thời gian gần đây. Sáng nay (20/8), Bộ trưởng Bộ Tư pháp Hà Hùng Cường đã trả lời chất vấn các Đại biểu Quốc hội về các nội dung: Trách nhiệm của Bộ trưởng trong...