Lắng nghe sự ấm lên của đại dương qua sóng âm động đất
Sóng âm di chuyển hàng nghìn km qua đại dương có thể giúp các nhà khoa học theo dõi chi tiết sự thay đổi khí hậu.
Khí thải gây hiệu ứng nhà kính đã và đang làm Trái đất nóng lên, đại dương cũng hấp thụ một lượng lớn nhiệt lượng đó. Để theo dõi sự thay đổi này, các nhà khoa học trước kia đã tiến hành nghiên cứu bằng một đội tàu toàn cầu gồm khoảng 4.000 thiết bị có tên Argo float đi thu thập dữ liệu ở nhiệt độ từ độ sâu 2.000m dưới đáy đại dương. Tuy nhiên, việc thu thập dữ liệu bị hạn chế ở một số khu vực, đặc biệt là những vùng sâu và những khu vực dưới lớp băng biển.
Gần đây, Wenbo Wu – nhà địa chấn học tại Caltech và các đồng nghiệp đã thử nghiệm sử dụng tốc độ âm thanh trong nước biển để ước tính nhiệt độ đại dương.
Trong một nghiên cứu mới, nhóm của Wu đã phát triển và thử nghiệm một cách sử dụng sóng âm do động đất tạo ra khi di chuyển qua phía Đông Ấn Độ Dương để ước tính sự thay đổi nhiệt độ ở những vùng biển từ năm 2005 đến 2016. Thử nghiệm cho những kết quả tích cực và cụ thể. Nghiên cứu này được đăng trên tạp chí Science ngày 18/9.
Sóng âm thanh được truyền qua nước bởi sự rung động của các phân tử nước. Ở nhiệt độ cao hơn, các phân tử đó dao động nhanh hơn. Kết quả là, sóng di chuyển nhanh hơn một chút khi nước ấm hơn. Nhưng những thay đổi đó rất nhỏ nên để có thể đo lường được, các nhà nghiên cứu cần phải theo dõi các sóng trong khoảng cách rất xa. May mắn thay, sóng âm thanh có thể truyền đi một khoảng cách rất xa qua đại dương, nhờ một hiện tượng kỳ lạ được gọi là Kênh SOFAR, viết tắt của Sound Fixing and Ranging. Được hình thành bởi các lớp nhiệt độ và độ mặn khác nhau trong nước, kênh SOFAR là một lớp nằm ngang đóng vai trò như một ống dẫn sóng âm thanh, và tần số thấp sóng âm trong kênh có thể đi hàng ngàn dặm trước khi tan biến.
Trước đó, năm 1979, nhà hải dương học Walter Munk đã đưa ra kế hoạch sử dụng các đặc tính đại dương này để đo nhiệt độ nước từ bề mặt đến đáy biển bằng một kỹ thuật mà họ gọi là “chụp cắt lớp âm học đại dương”. Họ sẽ truyền tín hiệu âm thanh thông qua Kênh SOFAR và đo thời gian sóng truyền đến các máy thu cách xa 10.000km. Bằng cách này, các nhà nghiên cứu hy vọng sẽ biên soạn một cơ sở dữ liệu toàn cầu về nhiệt độ của đại dương. Nhưng các nhóm hoạt động vì môi trường đã gây áp lực khiến thử nghiệm phải tạm dừng. Họ nói rằng các tín hiệu do con người tạo ra có thể có tác động xấu đến các loài động vật có vú ở biển.
40 năm sau, các nhà khoa học chứng minh rằng đại dương trên thực tế là một nơi rất ồn ào. “Các tín hiệu do con người tạo ra vô cùng mờ nhạt so với tiếng ầm ầm của các trận động đất, tiếng động của núi lửa dưới đáy biển và tiếng của các tảng băng va chạm” – nhà địa chấn học Emile Okal của Đại học Northwestern nói.
Video đang HOT
Wu và các đồng nghiệp thay vì sử dụng tín hiệu do con người tạo ra, họ sử dụng động đất. Khi một trận động đất xảy ra dưới đáy biển, nó giải phóng năng lượng dưới dạng sóng địa chấn được gọi là sóng P và sóng S dao động qua đáy biển. Một phần năng lượng đó đi vào nước. Và khi nó xảy ra, sóng địa chấn chậm lại, trở thành sóng T.
“Đông Ấn Độ Dương được chọn cho nghiên cứu chứng minh khái niệm này phần lớn là vì nó thường xuyên có những hoạt động địa chấn, gây ra vô số trận động đất như vậy”, Wu nói. Sau khi xác định hơn 2.000 bộ lặp từ năm 2005 đến năm 2016, nhóm nghiên cứu đã đo lường sự khác biệt về thời gian di chuyển của sóng âm qua Đông Ấn Độ Dương trong khoảng cách khoảng 3.000 km.
Dữ liệu cho thấy xu hướng ấm dần lên ở vùng biển – khoảng 0,044 độ C trong mỗi thập kỷ.
Wu cho biết kế hoạch tiếp theo của nhóm nghiên cứu là thử nghiệm kỹ thuật này với các máy thu ở xa hơn, bao gồm cả ngoài khơi bờ biển phía tây của Úc.
Frederik Simons, nhà địa vật lý tại Đại học Princeton nhận định nghiên cứu này “thực sự tạo ra một nền tảng mới”. Các nhà khoa học có thể sử dụng phương pháp đo nhiệt độ đại dương địa chấn để đưa ra những ước tính mới cả về nhiệt độ đại dương trong quá khứ.
Phát hiện cấu trúc khổng lồ bí ẩn bên dưới lòng đất
Một trong những cấu trúc khổng lồ nằm sâu dưới quần đảo Marquesas, thuộc Pháp, trước đây chưa từng được phát hiện. Trong khi cấu trúc khác nằm ở Hawaii.
Theo Vice, các nhà khoa học đã phát hiện một cấu trúc khổng lồ hình thành từ vật chất dày đặc nằm ở giữa lớp lõi ngoài và lớp phủ dưới Trái Đất. Cấu trúc này tạo thành khu vực khoảng 3.000 km nằm ngay dưới chân chúng ta bao lâu nay.
Để thăm dò cấu trúc bí ẩn sâu bên trong hành tinh, các nhà nghiên cứu đã sử dụng thuật toán vốn dùng để phân tích các thiên hà xa xôi.
Nhóm nhà khoa học đứng đầu là Doyeon Kim - nhà địa chấn học tại Đại học Maryland - đã tạo ra biểu đồ địa chất từ hàng trăm trận động đất xảy ra từ năm 1990-2018 bằng thuật toán có tên Sequencer.
Sương mù trên quần đảo Marquesas, thuộc Pháp. Ảnh: Vice.
Các nghiên cứu địa chấn khác thường chỉ tập trung vào những dữ liệu nhỏ lẻ về hoạt động của các trận động đất trong khu vực nhất định. Nhưng với Sequencer, các nhà khoa học đã phân tích được khoảng 7.000 phép đo động đất trong nhiều thập kỷ qua, mỗi trận có cường độ ít nhất 6,5 richter.
Một trong những cấu trúc khổng lồ này nằm sâu dưới quần đảo Marquesas, thuộc Pháp, trước đây chưa từng được phát hiện. Trong khi cấu trúc khác từng được tìm thấy trước đó bên dưới Hawaii nhưng trong đợt nghiên cứu này, người ta nhận thấy nó có kích thước lớn hơn ước tính.
"Nghiên cứu này rất đặc biệt bởi đây là lần đầu tiên chúng ta có thể xem xét bộ dữ liệu lớn như vậy một cách hệ thống, trong đó chứa dữ liệu của gần như toàn bộ lưu vực Thái Bình Dương", ông Doyeon Kim cho biết.
Vị trí của khối cấu trúc bí ẩn trong lòng Trái Đất. Ảnh: Vice.
Động đất tạo ra sóng địa chấn truyền vào bên trong hành tinh. Các cấu trúc tại đây làm cho những con sóng bị phân tán, biến dạng. Những sóng bị biến dạng được ghi lại trong các biểu đồ địa chấn ghi hoạt động sóng bên trong Trái Đất. Nhờ đó, các nhà nghiên cứu thu được những góc nhìn hiếm hoi về thế giới ngầm trong lòng đất vốn không thể tiếp cận.
Nhóm nghiên cứu tập trung vào các địa chấn được tạo ra bởi sóng trượt (sóng S), loại sóng truyền dọc theo ranh giới giữa lõi Trái Đất và lớp phủ, cho ra dữ liệu rõ ràng hơn sóng sơ cấp (sóng P).
"Chúng tôi thích dùng sóng trượt hơn vì chúng có biên độ lớn, sạch vì có lưu lượng sóng P ít hơn", ông Kim nói. Cụ thể, nhóm nghiên cứu tìm kiếm các sóng trượt nhiễu xạ dọc theo ranh giới lõi-lớp phủ. "Vì nhiễu xạ dọc theo bề mặt đó, nó tạo ra cơ hội tuyệt vời để tìm kiếm các cấu trúc nhỏ bé này trên ranh giới lớp phủ-lõi".
Khi sóng S chạm vào các cấu trúc địa chất này, chúng tạo ra tín hiệu giống như tiếng vang gọi là "dấu hiệu trước" (Postcursor).
Những tiếng vang này cho thấy sự tồn tại của cấu trúc dị thường sâu bên trong Trái Đất, được gọi là vùng vận tốc cực thấp (ULVZ). Không ai biết chính xác các ULVZ được hình thành như thế nào hoặc được tạo ra từ đâu, nhưng rõ ràng nó có đường kính khoảng 100 km và đủ dày đặc để khiến các đợt sóng đi qua bị chậm lại.
Các siêu ULVZ (vùng màu đỏ tươi) có thể lưu trữ dấu hiệu địa hóa nguyên thủy tương đối nguyên chất kể từ thời Trái Đất sơ khai. Ảnh: Semanticscholar.
Bằng cách cho Sequencer lọc qua hàng nghìn địa chấn, Kim và các đồng nghiệp phát hiện trong bộ dữ liệu của họ, tín hiệu như tiếng vang kia phát ra mạnh nhất từ dưới Hawaii và quần đảo Marquesas. Đây là bằng chứng rõ ràng về sự tồn tại của hai "siêu ULVZ" - khu vực vật chất đậm đặc rộng từ 1.000 km trở lên.
Siêu ULVZ là những cấu trúc thú vị, không chỉ do kích thước rộng lớn mà còn vì chúng có thể hình thành từ các vật liệu hiếm tồn tại trước cả khi Mặt Trăng xuất hiện. Những khối dị thường với kích thước khổng lồ này có thể là vật chất nóng chảy do một vụ va chạm khổng lồ giữa Trái Đất sơ khai và vật thể có kích cỡ sao Hỏa hơn bốn tỷ năm trước.
Nhóm nghiên cứu có kế hoạch tiếp tục phát triển nghiên cứu này và thuật toán Sequencer, giúp chúng ta nhìn rõ những cấu trúc bí ẩn bên dưới Trái Đất . Họ cũng hy vọng sẽ mở rộng tập dữ liệu sang cả những trận động đất dưới Đại Tây Dương.
Làm thế nào đo được nơi sâu nhất Trái Đất? Làm thế nào khoa học xác định được đây là điểm sâu nhất Trái Đất, cũng như đo độ sâu ở đó? Kathy Sullivan, nữ phi hành gia Mỹ đầu tiên ra vũ trụ vừa tạo nên một kỷ lục mới vào ngày 7/6 vừa qua, khi trở thành người phụ nữ đầu tiên chạm tới Challenger Deep, điểm thấp nhất của đại...