Làng cổ Tiên Hòa (Thanh Hóa) nơi lưu giữ hồn quê Việt
Làng cổ Tiên Hòa thuộc xã Hà Lĩnh, huyện Hà Trung, tỉnh Thanh Hoá là một ngôi làng có lịch sử lâu đời.
Trải qua nhiều biến cố của lịch sử và thời gian nhưng ngôi làng vẫn lưu giữ được nhiều nét kiến trúc cũng như văn hoá truyền thống của vùng. Tiên Hòa còn là nơi phát hiện di chỉ khảo cổ học Cồn Cổ Ngựa nằm trong nền văn hóa Đa Bút.
Theo các bậc cao niên trong làng, ngôi làng có tên nôm là Kẻ Khao, sau đó đổi tên là Tiên Cảo và hiện nay được gọi với tên Tiên Hoà. Vào giữa thế kỷ XVII (khoảng năm 1650) làng Tiên Hoà được tách ra làm hai thôn. Một bộ phận dân cư tập trung xung quanh chân núi để tránh lũ lụt về mùa mưa, nên gọi là Tiên Hòa Sơn thôn (hay Khao Rú); số còn lại ở lại sống tại Tiên Hòa Bái thôn (còn gọi là Khao Đồng).
Làng Tiên Hoà phân bố theo hình vành lược từ thấp lên cao ôm trọn sườn đồi (Ảnh: Trịnh Xuân Lục)
Theo cuốn Lịch sử truyền thống và cách mạng xã Hà Lĩnh, tại Tiên Hòa, vào những năm 1979 – 1980, các nhà khoa học đã phát hiện thấy di chỉ khảo cổ học Cồn Cổ Ngựa nằm trong nền văn hóa Đa Bút cách ngày nay khoảng 5.000 – 6.000 năm. Tại Cồn Cổ Ngựa, người ta đã tìm thấy số lượng lớn rìu, đục bằng đá của người nguyên thủy. Bên cạnh đó còn có dao được chế tác từ đá phiến (hình trăng khuyết), chày nghiền, bàn nghiền, hòn kê, hòn ghè được đẽo gọt.
Cũng tại di chỉ khảo cổ học Cồn Cổ Ngựa, còn có sự tồn tại của nhiều vỏ nhuyễn thể (vỏ hến, sò gai…). Đây là căn cứ cho suy đoán, tại đây không chỉ có săn bắn hái lượm mà còn có cả đánh cá và khai thác thủy, hải sản (di chỉ khảo cổ học Cồn Cổ Ngựa nằm cách sông Mã 3 km). Đây là chứng tích sinh động cho sự phát triển nền kinh tế trong hầu khắp tất cả các hoạt động: Săn bắn, hái lượm, đánh cá, chăn nuôi, nhất là trồng trọt lúa nước.
Những dãy núi nằm xen kẽ giữa những cánh đồng trong làng tạo nên bức tranh tươi đẹp, được ví như Hạ Long trên cạn (Ảnh: Trịnh Xuân Lục)
Được thiên nhiên ưu đãi cho một vùng đất sơn thuỷ hữu tình nên từ xa xưa ở Tiên Hòa đã có nhiều dòng họ từ khắp nơi trong tỉnh và các tỉnh phía Bắc đến đây khai hoang lập nghiệp. Các dòng họ đến Tiên Hòa từ nhiều nơi, như: Vĩnh Lộc, Yên Định, Nga Sơn, Hoằng Hóa, Hậu Lộc và cả các tỉnh Bắc Ninh, Hà Nam, Nam Định, Ninh Bình vào. Cho đến nay, ở Tiên Hòa có đến trên 36 dòng họ cùng nhau sinh sống. Trong đó, có 5 dòng họ có mặt lâu đời nhất từ thời nhà Trần như dòng họ Hoàng Huy được biết đến như dòng họ đến đây sớm nhất, rồi họ Mạc, họ Lưu Xuân, họ Hoàng Đức…
Trải qua quá trình phát triển với nhiều biến động, song địa giới chính của làng Tiên Hòa vẫn là phần đất rộng lớn phía Tây xã Hà Lĩnh. Làng được bao bọc xung quanh bởi núi, rừng và đồi đất. Phía Tây Nam làng là dãy núi Ác Sơn, phía Tây có rừng Đồng Khao, từ Tây Bắc sang Đông Bắc có núi Kẹm Sơn; ở giữa đồng chiêm trũng lại có dãy núi đá vôi Cô Sơn với những hòn núi nhỏ được người dân đặt tên khá thú vị, như: Núi Chiêng Ấm, Đúp Lớn, Cánh Gió, Mèo Ngồi, Mang Ếch, núi Vàng, núi Ngọc, núi Cánh Gió, núi Đúp lớn…
Ngõ Thượng cổ kính là nơi các bậc cao niên thường ngồi trò chuyện cùng nhau trên những bậc đá rêu phong
Dân cư trong làng được sinh sống và phân bố theo 12 ngõ hạng với từng tên riêng như: Ngõ Mã, Cổng, ngõ Thượng, ngõ Cửa, ngõ Cụt, ngõ Hát, ngõ Trung, ngõ Đình, ngõ Chùa, ngõ Trôi, ngõ Nghè, ngõ Giếng Đào. Kiến trúc ngõ hạng độc đáo là dấu tích lịch sử, nét văn hoá đặc trưng của làng cổ Tiên Hòa.
Video đang HOT
Ở chân núi trước làng có con sông Bồng Khê chảy từ xã Vĩnh Thịnh (huyện Vĩnh Lộc) theo hướng bắc – nam rồi đổ ra sông Mã tại ngã ba Bông. Vì thế cho nên từ ngõ Trôi đến ngõ Hát, cứ mỗi ngõ hạng nhân dân lại xây một bến nước để dùng vào việc tắm giặt và sinh hoạt. Bến nước cũng là nơi thuyền đậu để chở mạ ra đồng và chở lúa, hoa màu thu hoạch từ đồng về làng.
Giếng làng Tiên Hoà là nơi tắm táp và sinh hoạt của trẻ em, nhân dân trong làng
Trong những nét đẹp kiến trúc và văn hoá được lưu giữ thì không thể không kể đến giếng làng Tiên Hoà, thật may mắn khi chúng tôi vẫn được chiêm ngưỡng một giếng làng với làn nước trong vắt, mát lành. Giếng làng nơi đây vẫn được người dân vô cùng coi trọng, giữ gìn và duy trì sử dụng vào mục đích sinh hoạt.
Toạ lạc trên đỉnh đồi là một ngôi chùa có lịch sử lâu đời, có tên gọi là chùa Cao, được xây dựng từ thời kỳ vua Lê. Do biến động lịch sử, kiến trúc chùa xưa không còn nữa, chỉ còn lại những dấu tích như nền móng, bia đá, gạch ngói và chân tảng. Những dấu vết này đánh dấu sự hiện diện của một thời đại quan trọng trong lịch sử Phật giáo và văn hóa tại khu vực này. Năm 2020, chùa Cao bắt đầu được xây dựng lại. Đến nay, ngôi chùa đã tương đối hoàn thiện với một hạng mục độc đáo. Trong đó, đáng chú ý nhất là pho tượng Bồ Tát 4 mặt hướng ra 4 hướng Đông – Tây – Nam – Bắc và cây cầu kính dài hàng chục mét, có bàn tay khổng lồ được đặt ở chính giữa.
Chùa Cao không chỉ có ý nghĩa tâm linh mà còn là một di sản văn hóa và lịch sử của địa phương
Những năm gần đây, câu lạc bộ Làng ảnh Xứ Thanh thường xuyên phối hợp với UBND xã Hà Lĩnh tổ chức các chương trình phục dựng lại không gian văn hoá xưa. Những ngày giáp tết xuân Giáp Thìn 2024, Câu lạc bộ đã tổ chức một chương trình rất ý nghĩa, phục dựng khung cảnh Tết xưa tại ngôi nhà cổ của gia đình ông Hoàng Đình Ngoạn, thôn Tiên Hòa 1. Chương trình là nơi giao lưu của đông đảo các nhiếp ảnh gia trong và ngoài tỉnh, của những người yêu thích nghệ thuật ảnh và mong muốn gìn giữ nét văn hoá truyền thống của dân tộc.
Hình ảnh Tết xưa được tạo dựng tại làng cổ Tiên Hoà. Ảnh: Trần Thành
Trong chương trình, một không gian Tết xưa đã được phục dựng chi tiết nhằm giúp mọi người có thể hình dung đầy đủ, trọn vẹn về Tết truyền thống của người dân Việt và được chiêm ngưỡng, tìm hiểu về cách bài trí không gian thờ cúng ngày Tết; cách gói bánh chưng, cách trang trí cây nêu, bày biện mâm cỗ cúng gia tiên…..đồng thời thưởng trà, nghe nhạc, ngắm tranh cổ truyền.
Câu lạc bộ cũng đã đến thăm hỏi các bậc cao niên trong làng, tặng quà động viên các gia đình khó khăn trong làng, góp phần để mọi người cùng hân hoan đón xuân mới an vui.
Đại diện CLB Làng ảnh Xứ Thanh cùng đại diện UBND xã Hà Lĩnh, cấp ủy Chi bộ thôn Tiên Hòa 1 tặng quà gia đình có hoàn cảnh khó khăn
Tiên Hòa hôm nay là một vùng quê no ấm, một không gian văn hóa truyền thống đang được người dân gìn giữ và phát huy, là niềm tự hào của biết bao thế hệ người dân nơi đây. Đồng thời cũng một địa chỉ tin yêu và là nơi trở về, tìm đến của những người con xa quê và đông đảo du khách thập phương, mỗi khi Tết đến xuân về…/.
Giá trị địa chất và cảnh quan trong vùng Công viên địa chất Lạng Sơn
Được thành lập từ năm 2021, quá trình khảo sát đánh giá bước đầu xác định Công viên địa chất Lạng Sơn (CVĐC Lạng Sơn) tiềm ẩn nhiều giá trị tiêu biểu về di sản địa chất và cảnh quan thiên nhiên, trong đó có những điểm di sản quan trọng tầm cỡ quốc tế và toàn cầu: Địa chất và trầm tích học, cổ sinh vật học, khoáng vật học và sinh khoáng, kiến tạo, địa mạo và địa chất karst.
Mô hình Công viên địa chất toàn cầu có 4 giá trị cốt lõi, bao gồm: Bảo tồn cảnh quan và tổng thể các giá trị di sản trong đó có di sản địa chất, giáo dục môi trường, du lịch địa chất và sự tham gia của cộng đồng địa phương. Trong đó địa chất và cảnh quan là hai thành phần có mối liên hệ chặt chẽ, không thể tách rời trong vùng CVĐC.
Theo nghiên cứu, vùng CVĐC Lạng Sơn chủ yếu được hình thành từ đá lục nguyên cacbonat và đá lục nguyên - phun trào thành phần mafic-axit-á kiềm từ khoảng 500 triệu năm trước đến nay, được phân chia thành 24 hệ tầng địa chất trong đó có 15 hệ tầng lần đầu tiên được xác lập tại tỉnh Lạng Sơn. Các vận động kiến tạo đã hoàn thiện đáy lục địa CVĐC trong kỷ Paleogene trong khoảng từ 65 đến 23 triệu năm trước, góp phần tạo ra những di sản địa chất và cảnh quan đa dạng như ngày nay.
Những nét tiêu biểu về giá trị địa chất
Công viên địa chất Lạng Sơn được tạo thành từ 3 đới cấu trúc chính, gồm: 1 - Khối đá vôi Bắc Sơn dày khoảng 2.000m, dài 60 km, rộng 50 km, độ cao trung bình 500 - 600m, phân bố tại các huyện Bắc Sơn, Bình Gia, Chi Lăng, Hữu Lũng, Văn Quan, một phần thành phố Lạng Sơn và một phần huyện Cao Lộc; 2 - Võng chồng sông Hiến tại một phần các huyện Bắc Sơn, Bình Gia, Văn Quan, Cao Lộc; 3 - Võng chồng An Châu tại các huyện Lộc Bình và một phần các huyện Hữu Lũng, Chi Lăng. Ngoài ra còn những vùng bồn địa được hình thành trong quá trình dịch trượt bằng dọc theo đới đứt gãy sâu Cao Bằng-Tiên Yên và tích tụ trầm tích như trũng Na Dương, khu vực thành phố Lạng Sơn...
Theo nghiên cứu đánh giá, CVĐC Lạng Sơn có ít nhất 3 giá trị địa chất tiêu biểu tầm cỡ quốc tế so với các CVĐC toàn cầu ở khu vực lân cận.
Lịch sử tiến hóa sự sống đa dạng, xuyên suốt. Từ khi bùng nổ sự sống trong kỷ Cambri khoảng 500 triệu năm trước, CVĐC Lạng Sơn mang trong mình dòng chảy tiến hóa của lịch sử phát triển địa chất đầy đủ, liên tục và xuyên suốt. Quá trình tiến hóa sự sống liên tục từ khoảng 250 triệu năm cho đến ngày nay, biểu hiện rõ nét qua phức hệ đa dạng các hóa thạch động thực vật được phát hiện dày đặc tại các điểm di sản địa chất trong các hệ tầng thuộc đại Trung sinh (Mesozoic) và Tân sinh (Cenozoic). Hàng loạt hóa thạch và phong phú phân vị địa chất có nguồn gốc, độ tuổi khác nhau, thể hiện trên các tầng đá lục nguyên, đá núi lửa, đá cacbonat và đá biến chất được tìm thấy, trong đó có nhiều giống loài cổ sinh vật lần đầu tiên được tìm thấy tại Lạng Sơn. Khoảng 500 địa điểm địa chất được khảo sát, gần 180 địa điểm trong đó đã được xác định, nghiên cứu phân loại và đánh giá.
Hóa thạch san hô hệ tầng Bắc Bun ở xã Thượng Cường, huyện Chi Lăng. Ảnh Nguyễn Minh Chuyển
Lịch sử tiến hóa xuyên suốt này biểu hiện tại nhiều địa điểm di sản địa chất, di chỉ khảo cổ trong vùng như: Địa điểm Ký ức biển từ kỷ Cambri khoảng 500 triệu năm trước tại xã Vũ Lễ, huyện Bắc Sơn; Phong phú hóa thạch kỷ Devon (khoảng 420 tr.n.tr.) tại điểm Sự sống cổ dưới đại dương xã Thượng Cường, huyện Chi Lăng; Các hóa thạch kỷ Carboniferous, Permi hay Trias có tuổi từ 360 đến 220 triệu năm tại điểm Đại dương cổ yên bình, Homestay Sơn Thủy, Thế giới Cúc đá, Thác Bản Khiếng...Đặc biệt, tiêu biểu nhất là phức hệ hóa thạch phát hiện tại trũng Na Dương trong các thế Eocene - Paleogene và Miocene - Neogene (khoảng 40-2tr.n.tr.) được đánh giá rất quan trọng, mang giá trị nghiên cứu toàn cầu.
Trũng Na Dương - cửa sổ đặc biệt nhìn vào thế giới đầm hồ cổ đại. Bồn trũng Na Dương là kết quả của quá trình hoạt động trượt bằng kéo tách ủa đới đứt gãy Cao Bằng - Tiên Yên, được hình thành vào cuối thế Eocene, đầu thế Oligocen, cách ngày nay khoảng 40 triệu năm. Bồn trũng dày khoảng 570 mét, trong đó hệ tầng Na Dương bên dưới dày khoảng 240 mét, chuyển tiếp chỉnh hợp lên hệ tầng Dinh Chùa bên trên dày khoảng 300 mét.
Tại đây, quá trình khai thác than đã phát hiện phức hệ hóa thạch động thực vật khổng lồ rất phong phú và đa dạng: tê giác, thú than, linh trưởng, cá sấu, rùa, kỳ đà, các loài cá, nhuyễn thể trai ốc và dày đặc hóa thạch thực vật...tiêu biểu cho sự sống trong môi trường hệ sinh thái sông hồ - đầm lầy - rừng nhiệt đới vùng Đông Nam Á từ cuối thế Eocene (kỷ Paleogene) đến thế Miocene (kỷ Neogene). Nhiều loài trong đó đã được phát hiện lần đầu tiên ở đây và vì thế được đặt tên địa phương như tê giác Epiaceratherium naduongensis, thú than Anthracokeryx naduongensis, cá sấu Orientalosuchus naduongensis, linh trưởng mũi cong Anthradapis vietnamensis, ốc nước ngọt Bacbotricula...
Hệ tầng Na Dương - Dinh Chùa và khối núi Công Mẫu. Ảnh Dương Việt Hưng
Bồn trũng Na Dương từ lâu đã thu hút các nhà khoa học trên thế giới quan tâm nghiên cứu, tìm hiểu. Trong số các điểm di sản địa chất vùng CVĐC Lạng Sơn, địa điểm này được cho là có giá trị khoa học tầm cỡ toàn cầu, được coi là "cửa sổ đặc biệt nhìn vào hệ sinh thái Eocene muộn từ Đông Nam Á". Các hóa thạch động vật phát hiện tại đây được đánh giá như một mắt xích quan trọng, thể hiện "Mối liên hệ sinh học - địa lý chặt chẽ của các quần thể động vật có vú Eocene giữa Na Dương và Châu Âu đã nêu bật tầm quan trọng của Đông Nam Á như là nơi khởi nguồn của sự phát tán động vật có vú xuyên lục địa dọc theo rìa bắc đại dương Tethys".
Karst hóa mạnh và sự xuất hiện sớm của loài người. Khối đá vôi Bắc Sơn được hình thành từ các đá lục nguyên cacbonat biến chất yếu trong đại Paleozoi, cách ngày nay từ 540 đến 250 triệu năm. Trong vùng CVĐC Lạng Sơn, Khối đá vôi này có diện tích khoảng 1.200 đến 1.500 km2. Ở đây quá trình karst hóa diễn ra rất mạnh mẽ. Hệ thống núi đá vôi bị xói mòn do acid carbonic hình thành từ khí carbon dioxide trong không khí hòa tan vào nước, cộng với các ion dương của hydro (H ), tạo ra các hang động, sông suối ngầm, nhũ đá, măng đá cũng như các thung lũng giữa núi, các tháp, chóp nón.... Do ở vĩ độ thấp có khí hậu nhiệt đới nóng ẩm mưa nhiều nên mức độ karst hóa trong Khối đá vôi Bắc Sơn mạnh yếu tùy khu vực khác nhau nhưng nhìn chung là mạnh hơn nhiều so với các vùng đá vôi khác ở các tỉnh khác của Đông Bắc Việt Nam như Hà Giang hay Cao Bằng.
Quá trình karst hóa đã làm bào mòn, thẩm thấu, chia cắt tạo nên các dòng chảy, các hố sụt ngầm trong khối đá tạo nên các hang động. Hệ thống hang động đồ sộ có mật độ dày đặc trong khối núi đá vôi Bắc Sơn, khảo sát bước đầu đã xác định được khoảng 170 hang động được bảo tồn tốt, có giá trị khai thác du lịch. Nhiều địa điểm hang động hiện nay đã chứng minh cho dòng chảy ngầm rất mạnh trong quá khứ như các hang Phố Bình Gia, , động Tam Thanh - Nhị Thanh. Các hang động chủ yếu phân bố ở ranh giới giữa hệ tầng đá vôi Bắc Sơn và các thung lũng kiến tạo rộng như hang Thẩm Khuyên - Thẩm Hai, động Chùa Tiên, động Tam Thanh - Nhị Thanh, có cửa hang không quá cao. Đây có thể là một trong những điều kiện thuận lợi trong việc lựa chọn nơi cư trú và sinh sống các loài động vật và của chính con người cổ đại từ thuở sơ khai.
Di chỉ khảo cổ hang Thẩm Khuyên - Thẩm Hai, xã Tân Văn, huyện Bình Gia. Ảnh Nguyễn Minh Chuyển
Trong hang Thẩm Khuyên - Thẩm Hai và nhiều hang động khác trong Khối đá vôi Bắc Sơn đã phát hiện hóa thạch của người đứng thẳng (Homo erectus) có niên đại khoảng 500.000 năm trước, cho thấy khu vực này đã là một trong những cái nôi sớm nhất của con người cổ đại ở Việt Nam. Sự sống phát triển liên tục sau đó, trở thành nơi ra đời của các nền văn hóa khảo cổ Bắc Sơn và Mai Pha nổi tiếng trong khảo cổ học Việt Nam. Hệ thống hang động khảo cổ này có tầm quan trọng quốc tế, thể hiện mối liên hệ mật thiết giữa quá trình kiến tạo địa chất, điều kiện môi trường thiên nhiên và đời sống con người đã có từ rất lâu trong vùng CVĐC Lạng Sơn. Tiến hóa sự sống và biến đổi địa chất vẫn đang tiếp tục cho đến ngày nay.
Cảnh quan thiên nhiên đa dạng hấp dẫn
Với địa hình đồi núi chiếm đến 80% diện tích lãnh thổ cùng với những đặc điểm về lịch sử kiến tạo địa chất, cảnh quan trong vùng CVĐC Lạng Sơn được tạo thành từ 5 dạng địa hình tiêu biểu là kiến tạo, xâm thực, bóc mòn, tích tụ và karst. Trong đó nổi bật hơn cả là địa hình cảnh quan karts trong giai đoạn trưởng thành tạo nên các trũng và thung lũng giữa núi (Khối đá vôi Bắc Sơn), địa hình kiến tạo dạng bồn địa trũng-kéo tách (như trũng Na Dương, thành phố Lạng Sơn) và địa hình bóc mòn, đồi núi (như khối núi Công Mẫu).
Cảnh quan karst hệ tầng Bắc Sơn, xã Yên Thịnh, Hữu Lũng. Ảnh Nguyễn Minh Chuyển
Cảnh quan Khối đá vôi Bắc Sơn, còn được gọi là nếp lồi Bắc Sơn, kéo dài theo hướng Đông bắc - Tây nam, được hình thành chủ yếu từ đá lục nguyên cacbonat-phun trào trong đại Cổ sinh Paleozoi. Dạng địa hình này tập trung chủ yếu tại 5 huyện Bắc Sơn, Chi Lăng, Hữu Lũng, Văn Quan, Bình Gia, một phần thành phố Lạng Sơn và huyện Cao Lộc. Vùng núi karst có đặc điểm phân bố và nhận dạng rõ ràng, khác biệt với các khu vực cảnh quan lân cận. Khối núi có các mức độ karst hóa khác nhau: Karst hóa rất mạnh, lâu đời, để lộ các lớp đá lục nguyên cổ hơnbên dưới, các cánh đồng karst bằng phẳng (ở Bình Gia, Văn Quan); Karst trong giai đoạn trưởng thành tạo nên núi đá vôi hình nón liên kết với nhau và những vùng trũng/lân lũng bằng phẳng khép kín. Quá trình karst hóa này đã tạo ra những cảnh quan núi đá kết hợp với thung lũng đẹp như tại các vùng ven thị trấn huyện Bắc Sơn, các xã Yên Thịnh, xã Trấn Yên, thung lũng Đồng Lâm xã Hữu Liên...
Giá trị cảnh quan karst còn biểu hiện ở hệ thống hang động đồ sộ có mật độ dày đặc trong khối núi đá vôi Bắc Sơn. Nghiên cứu ban đầu xác định trong khu vực có hang Nà Lả tại xã Liên Hội huyện Văn Quan dài hơn 4,4 km, hang Cả tại xã Thiện Tân huyện Hữu Lũng dài 3,3 km, trần hang cao đến 123 mét, hang Nàng Tiên tại xã Thượng Cường huyện Chi Lăng có cửa hang cao nhất là 512 mét so với mực nước biển. Nhiều hang động kỳ thú là kết quả của các dòng sông chảy ngầm trong quá khứ như Thẩm Khoách, Lắc, hang Dơi cùng rất nhiều hang động chứa di tích khảo cổ, văn hóa, lịch sử rất có giá trị như hang Thẩm Khuyên - Thẩm Hai, hang Kéo Lèng, hang Gió, hang động Nhị - Tam Thanh...
Cảnh quan đồi núi phi kasrt được hình thành trong trong quá trình trầm tích - phun trào và bóc mòn sau đó lớp trầm tích lục nguyên-phun tràothành phần mafic-axit, á kiềm biến chất yếu trong đại Trung sinh (Mesozoi, cách ngày nay từ khoảng 250 đến 72 triệu năm). Dạng địa hình bóc mòn đồi núi phi karst này tập trung chủ yếu ở huyện Lộc Bình, Cao Lộc, Chi Lăng, Văn Quan và một phần các huyện/thành phố còn lại. Vùng núi có độ cao trung bình từ 200 đến 400 mét, cá biệt có các đỉnh núi cao như Công Sơn 1.541m, Mẫu Sơn 1.520m, Khau Khiêng ~ 1.080m, Chóp Chài, Khau Mòng... Nhiều vùng trong đó có địa hình cảnh quan hùng vĩ mang vẻ đẹp tự nhiên, có tiềm năng khai thác du lịch dịch vụ, thổ nhưỡng thích hợp để canh tác các loài cây đặc hữu của Lạng Sơn như hồi, quế.
Cảnh quan vùng bồn địa được hình thành từ quá trình kiến tạo tích tụ lớp trầm tích tạo nên các vùng bằng phẳng rộng lớn như Na Dương, thành phố Lạng Sơn, dọc theo các đứt gãy sông Kỳ Cùng, sông Thương, trong đó vùng thành phố Lạng Sơn được hình thành muộn hơn từ kỷ Đệ Tứ. Vùng này có độ cao trung bình 250m và địa hình tương đối bằng phẳng, là điều kiện thuận lợi để con người tập trung sinh sống và sản xuất, hình thành nên các vùng dân cư đông đúc như thành phố Lạng Sơn, thị trấn Lộc Bình, thị trấn Na Dương, thị trấn Đồng Mỏ...
Điểm di sản số 35 Thế giới đầm hồ tại trũng Na Dương. Ảnh Nguyễn Minh Chuyển
Với những giá trị đa dạng và khác biệt về địa chất và cảnh quan, vùng CVĐC Lạng Sơn mang đầy đủ yếu tố để có thể trở thành Công viên địa chất toàn cầu UNESCO trong tương lai, góp phần bảo tồn và phát huy các di sản địa chất cùng các giá trị di sản khác trong khu vực, thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội bền vững.
Cuối tuần xanh mát tại Pù Luông, Thanh Hóa Được mệnh danh là Tây Bắc thu nhỏ của xứ Thanh, với vẻ đẹp hoang sơ say đắm lòng người, Pù Luông trở thành điểm đến hút khách trong nước và quốc tế. Pù Luông trong tiếng Thái là đỉnh núi cao nhất. Khu bảo tồn thiên nhiên Pù Luông nằm trên địa bàn hai huyện Bá Thước và Quan Hóa, cách TP...