Làm gì để trí thức Việt ở nước ngoài sẵn sàng đóng góp cho quê hương?
“Cần phải biến “tự ái dân tộc” thành sức mạnh tập thể đưa đội ngũ trí thức Việt Nam vươn lên, từ đó đóng góp được nhiều hơn cho đất nước.”
GS.TS Nguyễn Đức Khương, Chủ tịch Hội Khoa học và Chuyên gia Việt Nam tại Pháp (ảnh), chia sẻ khi bàn về cơ hội và trách nhiệm của trí thức Việt đang học tập và sinh sống tại nước ngoài.
Pháp và một số nước phát triển khác như Mỹ, Anh, Nhật… là nơi hội tụ của rất nhiều du học sinh Việt Nam có chất lượng cao. Tôi không có con số thống kê chính xác nhưng theo tôi được biết thì từ 2001 đến nay, mỗi năm riêng Trường ĐH Bách khoa Paris (Ecole Polytechnique, xếp số 1 của Pháp về đào tạo Kỹ sư) tiếp nhận khoảng hơn 10 sinh viên Việt Nam đạt giải cao tại các kỳ thi quốc tế.
Trên thực tế, bộ phận này ngày một lớn mạnh, năng động, học tập và nghiên cứu tốt, nhiều người đã tốt nghiệp và hiện đang công tác tại nhiều trường Đại học, trung tâm nghiên cứu, tập đoàn lớn của Pháp, và nhiều nước khác. Có rất nhiều tấm gương, đã từng được báo chí nhắc đến như anh Ngô Bảo Châu (GS Toán học tại Đại học Paris 11), Ngô Đắc Tuấn (Tiến sỹ Toán, nghiên cứu viên của trung tâm nghiên cứu quốc gia Pháp, công tác tại ĐH Paris 13)…
Qua tiếp xúc với anh chị em trí thức trẻ người Việt tại nước ngoài, tôi thấy tinh thần chung của họ là mong muốn học tập và nghiên cứu tốt, nếu được thì tham gia công tác ở nước ngoài một thời gian để có điều kiện được sánh vai với đồng nghiệp năm châu, trau rồi kiến thức và kinh nghiệm thực tiễn và luôn sẵn sàng đóng góp hết mình vào sự phát triển khoa học, công nghệ, kinh tế và xã hội tại Việt Nam.
Bên cạnh đó họ cũng mong muốn Nhà nước, các cơ quan chức năng, có một cơ chế sử dụng trí thức đi vào thực chất, có chính sách đãi ngộ hợp lý để trí thức đang ở nước ngoài có thể đóng góp trực tiếp hay gián tiếp vào công cuộc xây dựng đất nước.
TS Khương và những bạn du học sinh tại Pháp
Video đang HOT
Anh chị em cũng luôn băn khoăn về thực lực của đội ngũ trí thức nước mình khi hàng ngày, hàng giờ khi được tiếp xúc với đội ngũ trí thức của các nước có nền khoa học tiên tiến. Chính vì thế, một số trí thức kỳ cựu và trí thức trẻ ở Pháp luôn tìm cách để biến “tự ái dân tộc” thành sức mạnh tập thể đưa đội ngũ trí thức Việt Nam vươn lên, từ đó đóng góp được nhiều hơn cho đất nước.
Thuận lợi lớn nhất chính là tấm lòng với quê hương, đất nước, mong muốn làm một cái gì đó. Khó khăn lớn nhất có lẽ chính là sự tản mạn cố hữu và thiếu tinh thần đoàn kết vì những lý do đôi khi không lớn. Trong thời kỳ văn minh, kinh tế phát triển, mỗi cá nhân luôn phấn đấu không ngừng để thể hiện mình, chứng tỏ khả năng chuyên môn của mình. Đó là mặt mạnh, là điều rất nên làm. Tuy nhiên, cũng chính sự nỗ lực không mệt mỏi trong một vòng quay của thời kỳ hiện đại lại làm giảm đáng kể thời gian dành cho những công việc chung.
Đã có lần, tôi cũng trăn trở trước câu hỏi: Các nhà trí thức, khoa học, tiến sỹ Việt, sau khi đã được đào tạo bài bản tại các nước phát triển trên thế giới thì nên về Việt Nam trực tiếp đóng góp cho đất nước hay ở lại “xây nhà hàng xóm”?
Cuối cùng tôi vẫn khẳng định: Ở đâu không quan trọng, miễn sao cống hiến được nhiều cho Tổ Quốc mình. Với thời điểm hiện này, mặc dù sống ở bất cứ quốc gia nào trên thế giới, các nhà trí thức, ở một thời điểm nhất định nào đó, vẫn có thể về Việt Nam công tác, cống hiến. Ví như trường hợp anh Ngô Bảo Châu, nếu sau khi tốt nghiệp tiến sỹ, anh Châu về nước thì chúng ta và bạn bè thế giới có thể sẽ không biết đến một nhà toán học lừng danh người Việt. Chiếc cầu nối là quan trọng. Tôi nghĩ, khi đất nước yêu cầu và tạo điều kiện thuận lợi để các trí thức đóng góp sức mình để cho những hiệu quả thiết thực và cụ thể thì họ sẽ về thôi…
GS.TS Nguyễn Đức Khương sinh năm 1978, tốt nghiệp ĐH Thương Mại trong nước và sang Pháp du học theo học bổng của tổ chức Pháp ngữ (Agence Universitaire de la Francophonie). Sau khi hoàn thành khóa học Thạc sỹ quản trị tài chính vào tháng 9/2001, anh tiếp tục làm nghiên cứu sinh và bảo vệ luận án tiến sĩ ngành khoa học quản lý. Năm 2006, anh được Hội đồng khoa học quốc gia của Bộ Giáo dục Pháp cấp chứng chỉ tương đương với Phó giáo sư tại Việt Nam. Tháng 6/2009 anh đã bảo vệ thành công chứng chỉ có quyền hướng dẫn nghiên cứu sinh HDR (Habilitation à Diriger des Recherches), điều kiện cần để trở thành Giáo sư ở Pháp.
Hiện tại anh là giảng viên tài chính và đảm nhiệm vị trí giám đốc trung tâm nghiên cứu về Kinh tế – Tài chính – Luật tại Học viện Thương Mại Paris. Anh cũng tham gia giảng dạy tại một số nước Châu Âu khác như Anh, Tây Ban Nha…
Theo Vietbao
Leo thang Biển Đông: Kẻ xâm lăng cuốn xéo khỏi đất Việt!
Dân tộc Việt Nam không bao giờ gây chiến với quốc gia khác. Khi chủ quyền dân tộc bị xâm phạm, sức mạnh của người Việt trỗi dậy mạnh mẽ hơn nhiều so với sún.g đạn, gươm dao.
Kẻ dùng đến vũ lực là bất lực
GS.TSKH Trần Ngọc Thêm, Trung tâm Văn hóa học Lý luận và Ứng dụng, Đại học Khoa học Xã hội & Nhân văn, Đại học Quốc gia TPHCM cho rằng, đối với người Việt, khi đứng trước những khó khăn lớn, nguy cơ đ.e dọ.a mạng sống của cả động đồng thì tình đoàn kết và tính tập thể sẽ nổi lên rõ ràng. Người Việt chỉ cầm vũ khí khi kẻ thù quyết xâm lược non nước này, quyết bắt dân tộc này làm nô lệ.
Và khi dân tộc này đã đứng dậy đán.h đuổi quân cướp nước thì bao giờ cũng vậy, dù tàn bạo đến đâu, tinh nhuệ đến đâu kẻ xâm lăng cũng phải cuốn xéo khỏi mảnh đất Việt thiêng liêng. Vì dân ta có sức mạnh yêu nước kết hợp với sức mạnh của tinh thần đoàn kết thành một khối hướng theo ngọn cờ yêu nước. Hội nghị Diên Hồng của quân dân thời nhà Trần là một minh chứng sinh động.
Đạo lý thương người của dân tộc này, tính cách yêu chuộng hòa bình của dân tộc này đã hun đúc nên một quan niệm ứng xử với kẻ xâm lược: Kẻ dùng đến vũ lực là bất lực. Vì thế mà văn hóa giữ nước của tổ tiên ta truyền đời cho con cháu sau này là phương châm chiến lược "Mưu phạt tâm công", coi trọng việc đán.h vào lòng người là quan trọng nhất. Điều ấy hoàn toàn phù hợp, đúng hơn, là hệ quả của một tính cách Việt chuộng hòa bình, hiếu sinh chứ không hiếu sát.
Ảnh trong bộ ảnh "Hướng về biển Đông - Chạm vào Tổ Quốc".
Sức mạnh của chính nghĩa
Theo PGS.TS Trần Văn Bính, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa phát triển, làn sóng yêu nước cuồn cuộn trỗi dậy mỗi khi đất nước bị xâm lăng chứ không bao giờ hiếu chiến, kiêu ngạo là bởi tính hòa hiếu coi trọng nhân nghĩa. Bởi đứng ở chính nghĩa nên tạo được sự đồng thuận xã hội, đồng thuận quốc tế cao. Chính nghĩa cũng là một thứ sức mạnh vô song. Vấn đề Biển Đông đang diễn ra, dư luận trong nước bất bình vì chủ quyền dân tộc bị xâm phạm thì dễ hiểu, nhưng dư luận quốc tế cũng hết sức phẫn nộ bởi đó là sự xâm lược của nước lớn với nước bé. Việt Nam đứng ở phía chính nghĩa, ở chân lý, ở cái đúng, thì luôn được ủng hộ.
PGS.TS Nguyễn Bá Diến, Viện Nghiên cứu khoa học Biển và Hải đảo cho rằng, sức mạnh của người Việt được kết tinh từ hai bộ phận chính: Sức mạnh dân tộc (nội lực) và sức mạnh thời đại (quốc tế). Kết hợp sức mạnh dân tộc với sức mạnh thời đại là quan điểm cơ bản của Đảng và cũng là một bài học lớn của cách mạng Việt Nam. Thời đại ngày nay, ngoài lòng yêu nước, sử dụng sức mạnh chính nghĩa, giải pháp pháp lý sẽ như là một công cụ, vũ khí lợi hại. Bởi giải pháp chạy đua vũ trang hay kinh tế, Việt Nam khó có thể ngang bằng với các quốc gia khác, đặc biệt là Trung Quốc. Đây là điểm mạnh của chúng ta, vượt xa các quốc gia khác.
Đối với vấn đề biển Đông, giải pháp pháp lý được coi là một trong những hệ giải pháp quan trọng nhất, an toàn và hiệu quả nhất trong tổng thể các giải pháp đấu tranh, bảo vệ chủ quyền Việt Nam trên biển Đông. Hơn nữa, thông qua việc sử dụng các luận cứ, luận chứng pháp lý được xây dựng trên cơ sở pháp luật quốc tế - cán cân công lý của thời đại, được cả cộng đồng quốc tế xây dựng và tuân thủ - càng tiếp thêm sức mạnh chính nghĩa của Việt Nam trước cộng đồng khu vực và quốc tế.
Tài của người lãnh đạo
Theo PGS.TS Trần Văn Bính, nguyên Viện trưởng Viện Văn hóa thì tình yêu thương đùm bọc nhau là sức mạnh, nhưng trải qua nhiều thời kỳ lịch sử cho đến ngày nay, nền kinh tế thị trường đã làm cho chủ nghĩa yêu nước, tình yêu thương giữa con người với nhau, tính cộng đồng, làng xã gắn kết... đã ít nhiều bị phai nhạt. Sự kiện Trung Quốc hạ đặt trái phép giàn khoan Hải Dương 981 vào thềm lục địa của Việt Nam, đáng mừng là tinh thần yêu nước, sự phẫn nộ với hành vi xâm lược của người dân lại dấy lên. Điều đó cho thấy, dù có những giai đoạn lùi lại, dù có đôi khi người ta mải mê với hội nhập mà có chút lãng quên, thì từ trong sâu thẳm, chủ nghĩa yêu nước vẫn cứ hằn sâu trong trái tim người Việt. Chiến thắng của các cuộc đấu tranh chống xâm lược của các cường quốc là bởi những người lãnh đạo đất nước đã biết vận dụng, phát huy sức mạnh đó.
Nhiều người đặt câu hỏi và lo lắng, nếu xảy ra biến cố, liệu người Việt có thể gắn kết với nhau giống như đã từng gắn kết trong lịch sử? Theo nhận định của PGS.TS Trần Văn Bính thì lòng yêu nước đã có trong gen của người Việt. Nguyên nhân của sự phai nhạt đó là do phân hóa xã hội nặng nề, phân biệt giàu nghèo lớn, nhưng chắc chắn khi cùng chung một chí hướng, lòng yêu nước đang âm ỉ sẽ vẫn cứ rấy lên. Người trẻ dù đâu đó quen thói ăn chơi, quen lối sống hưởng thụ, thì khi động đến độc lập dân tộc, chủ quyền quốc gia, chắc chắn lòng yêu nước vẫn sẽ trỗi dậy.
Còn theo GS Hoàng Chương, Trung tâm Nghiên cứu Bảo tồn và Phát huy văn hóa dân tộc Việt Nam, xu thế toàn cầu hóa, thế giới phẳng đang là thách thức tạo ra sự biến động, không ổn định của văn hóa dân tộc. Văn hóa đang bị xâm nhập mạnh bởi văn hóa ngoại lai, nhưng chắc chắn không người Việt Nam nào mất đi tình yêu văn hóa dân tộc mình. Nó sẽ trỗi dậy, khi có điều kiện buộc phải trỗi dậy.
Theo các chuyên gia nghiên cứu văn hóa, chưa và sẽ không có một lý giải đủ căn cứ hay đủ sức thuyết phục về sức mạnh tiềm ẩn của người Việt. Nó muôn đời vẫn là những bí ẩn bởi cũng giống như trong chính cuộc sống, trong tự nhiên, trong xã hội, cũng có những thứ mà khoa học đến nay chưa thể lý giải, chỉ có thể hiểu một phần nào đó.
"Người Việt Nam chưa bao giờ thích chiến tranh và cũng không bao giờ có giấc mộng bá chủ. Người Việt yêu hòa bình trong suốt cả dặm dài lịch sử. Phương châm "đem đại nghĩa để thắng hung tàn, lấy chí nhân để thay cường bạo" được cha ông thực hiện xuyên suốt trong lịch sử. Sức mạnh của người Việt, có lẽ bởi nó toát ra từ chính việc không coi mình là mạnh, không hung hăng hống hách, sống coi trọng chữ tình, coi trọng danh dự hơn sức mạnh". GS.TS Trần Văn Bính
Theo Kiến thức
Trung Quốc lên tiếng về 4 giàn khoan mới Bộ Ngoại giao Trung Quốc hôm qua tuyên bố việc triển khai 4 giàn khoan dầu ở Biển Đông trong thời gian tới là "hoạt động bình thường" Trong cuộc họp báo, các phóng viên hỏi bà Hoa Xuân Oánh, người phát ngôn của Bộ Ngoại giao Trung Quốc, rằng liệu 4 giàn khoan mới nằm trong vùng biển tranh chấp hay không,...