Làm gì để phát hiện sớm ung thư dạ dày?
Phát hiện ở giai đoạn sớm, ung thư dạ dày có tiên lượng tốt hơn nhiều so với giai đoạn tiến triển (90% sống sót sau 5 năm).
Ung thư dạ dày là một trong 5 bệnh ung thư thường gặp nhất tại Việt Nam cũng như trên thế giới. Tại Việt Nam, năm 2018 có hơn 17.000 ca mắc mới và hơn 15.000 trường hợp tử vong vì căn bệnh này.
Việc tiến hành sàng lọc và điều trị dự phòng mang lại hiệu quả tích cực bởi ung thư dạ dày nếu phát hiện ở giai đoạn sớm thì vẫn có khả năng điều trị thành công. Tuy nhiên, tại nước ta tỉ lệ phát hiện bệnh ở giai đoạn muộn còn cao, khiến cho việc điều trị gặp nhiều khó khăn, hiệu quả kém, kinh phí điều trị lớn.
Ung thư dạ dày giai đoạn sớm được định nghĩa là mức độ xâm lấn ung thư dạ dày chưa vượt qua lớp hạ niêm mạc. Ở giai đoạn này có tiên lượng tốt hơn nhiều so với ung thư dạ dày giai đoạn tiến triển (90% sống sót sau 5 năm).
Dưới đây bác sĩ Bệnh viện K đưa ra hướng dẫn các bước tầm soát ung thư dạ dày:
Bước 1: Khám lâm sàng
Video đang HOT
Đây là bước đầu tiên, cũng là bước quan trọng trong khám tầm soát ung thư dạ dày.
Bác sĩ sẽ hỏi các thông tin cụ thể về tuổi, tình trạng sức khỏe, bệnh sử cá nhân và gia đình nếu có, các triệu chứng biểu hiện bệnh nghi ngờ gặp phải… nhằm đánh giá nguy cơ mắc bệnh. Sau đó sẽ tiến hành khám lâm sàng phát hiện các dấu hiệu của bệnh.
Bước 2: Nội soi dạ dày
Bác sĩ sẽ sử dụng ống nội soi để đưa vào từ thực quản xuống đến dạ dày để quan sát bên trong. Ưu điểm của nội soi cho phép quan sát được các thay đổi của niêm mạc dạ dày và tiến hành sinh thiết qua nội soi để có chẩn đoán mô bệnh học, qua đó cho phép chẩn đoán các ung thư dạ dày tại chỗ hoặc xâm lấn.
Ngoài ra các tổn thương tiền ung thư cũng có thể thấy được trên nội soi như: viêm teo, loét, polyp hoặc các tổn thương dạng tăng sản biểu mô tuyến. Sinh thiết các tổn thương nghi ngờ cũng có thể phát hiện các tổn thương tiền ung thư trên mô bệnh học như viêm teo, tăng sản, dị sản, loạn sản…
Ngoài ra, nội soi cũng có thể đánh giá tình trạng có hay không có nhiễm Helocobacter Pylori (HP), một trong số những yếu tố nguy cơ gây ung thư dạ dày, giúp cho việc điều trị dự phòng.
Ung thư dạ dày là loại bệnh lý tiến triển khá nhanh, do đó trong sàng lọc, vai trò của nội soi dạ dày chủ yếu tập trung vào phát hiện sớm các tổn thương tiền ung thư.
Bước 3: Chụp cắt lớp vi tính (CT)
Bác sĩ có thể chỉ định bệnh nhân chụp CT. Bác sĩ chủ yếu dựa vào các hình ảnh để đánh giá tình trạng thương tổn của dạ dày, sự xâm lấn của khối u đến các bộ phận xung quanh.
Hơn nữa qua đó có thể đánh giá tình hình của bệnh nếu ung thư bắt đầu di căn đến các bộ phận khác trong cơ thể như: gan, hạch, ổ bụng, ổ phúc mạc…
Bước 4: Sinh thiết
Phương pháp này có thể được tiến hành ngay khi nội soi ở nơi có tổn thương tại niêm mạc dạ dày, sau đó tiến hành giải phẫu bệnh. Sinh thiết là thủ tục cần để chẩn đoán tế bào khối u có phải là ung thư hay không.
Khối u to như quả táo 3 năm nằm ở vòm miệng cô giáo
Các bác sĩ Khoa Ngoại Đầu Cổ, Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội đã phẫu thuật thành công cho bệnh nhân Đ.T.N. (44 tuổi) là một cô giáo đến từ quận Bắc Từ Liêm có khối u trong miệng khá hiếm gặp.
Bệnh nhân được chẩn đoán trước mổ là u hỗn hợp tuyến nước bọt phụ chưa loại trừ ung thư. Khối u sinh mạch máu nhiều, nhẵn, to như quả táo, kích thước 3x3.5cm, ngay sát chân răng số tám bên phải, không di động. Kết quả chụp CT cho thấy khối u đã ăn mòn xương khẩu cái cứng, lan một phần vào sàn mũi.
Khối u ở vòm miệng cô giáo được phẫu thuật bằng phương pháp laser.
Ca phẫu thuật diễn ra khá phức tạp do phải tạo hình trong khoang miệng hẹp sâu có cả ống thở, khối u xâm lấn vào sàn mũi, động mạch khẩu cái lớn gây ra máu nhiều, khó cầm máu dù đã sử dụng dao laser. Nếu sử dụng dao thường có thể gây ra máu ồ ạt, hậu phẫu sau mổ cũng gặp nhiều khó khăn do khoang miệng có nhiều vi khuẩn nếu không vệ sinh tốt dễ gây ra nhiễm trùng, nước bọt làm tiêu chỉ khâu, dẫn tới khả năng bục vết mổ.
Đặc biệt, sau khi khối u được lấy ra toàn bộ đã để lại một khuyết hổng lớn chiếm 2/3 vòm miệng. Tổ chức khối u chắc, niêm mạc vùng khẩu cái không chun giãn, nền khối u dễ rách không thể kéo ra để lấp vùng khuyết hổng. Các bác sĩ phải tạo hình bằng cách cắt toàn bộ lưỡi gà phần khẩu cái mềm tạo vạt che nhằm cầm máu và khuyết hổng không bị thông thương miệng mũi.
Sau ca phẫu thuật, bệnh nhân hồi phục tốt. Do tạo hình che phủ khuyết hổng nên các chức năng nói (không bị giọng mũi hở), ăn không bị sặc, không biến dạng hàm mặt ảnh hưởng thẩm mỹ.
Bệnh nhân N. phát hiện có khối u trong miệng đã 3 năm nhưng chủ quan không đi khám. Cho đến khi khối u phát triển chiếm đến gần 2/3 vòm miệng gây nuốt vướng, buồn nôn, ảnh hưởng đến giọng nói thì bệnh nhân mới đến khám tại Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội và được chẩn chẩn đoán u tuyến nước bọt phụ có khả năng ung thư hóa cần phẫu thuật sớm.
TS Đàm Trọng Nghĩa - Trưởng khoa Ngoại Đầu Cổ, Bệnh viện Ung Bướu Hà Nội cho biết, u tuyến nước bọt chủ yếu gặp là tuyến mang tai chiếm từ 80-90% và tuyến dưới hàm hầu hết là u tuyến lành tính. Điều trị u tuyến nước bọt chủ yếu bằng phẫu thuật. Tuyến nước bọt phụ như tuyến dưới lưỡi, vùng khoang miệng ít gặp (chỉ chiếm khoảng 10%). Tuy nhiên, u tuyến nước bọt phụ có tỉ lệ ung thư hóa khá cao (chiếm từ 70 đến 80%). Như trường hợp chị N. kết quả giải phẫu khối u sau mổ xác định là ung thư.
TS Nghĩa khuyến cáo, nếu người bệnh phát hiện có u tuyến nước bọt phụ kích thước hơn 5 mm nên được phẫu thuật và điều trị sớm, tránh các nguy cơ ung thư hóa gây xâm lấn phá hủy xương, khối u càng to, việc phẫu thuật càng khó khăn.
Nếu không được chẩn đoán điều trị kịp thời, khối u ở vùng vòm miệng xâm lấn thường gây ra máu ồ ạt, xâm lấn mũi miệng rộng, bệnh nhân bị ảnh hưởng đến giọng nói, ăn uống. Điều trị sớm bệnh nhân sẽ có khả năng khỏi bệnh cao, không bị ảnh hưởng đến chất lượng cuộc sống hoặc tính mạng. Vì vậy, nếu người dân phát hiện khối u bất thường vùng đầu cổ nhất là khoang miệng hãy đi khám chuyên khoa ung bướu sớm để được chẩn đoán và điều trị tốt nhất.
Tự đánh giá nguy cơ mắc ung thư từ chính cách ăn uống của bản thân Thức uống quá nóng được chứng minh là làm tăng nguy cơ mắc ung thư thực quản. Trong khi đó, thực phẩm được bảo quản bằng muối lại có thể khiến rủi ro phát triển ung thư dạ dày trở nên cao hơn. Từ những năm 60 của thế kỷ trước, ngành y học thế giới đã bắt đầu có những nghiên cứu...