Kỳ vọng kinh tế hồi phục, số doanh nghiệp thành lập mới tăng
Ông Lê Trung Hiếu, Phó Tổng cục trưởng Tổng cục Thống kê (TCTK) cho biết: Số lượng doanh nghiệp đăng ký kinh doanh tiếp tục tăng, phản ánh nền kinh tế đang phục hồi tích cực.
Thị trường xuất khẩu gạo của Việt Nam chủ yếu là châu Á (chiếm hơn 50%), tiếp theo là châu Phi và châu Mỹ. Ảnh: Thu Hiền/TTXVN
“Số doanh nghiệp gia nhập và tái gia nhập thị trường trong 9 tháng năm nay đạt hơn 163.000 doanh nghiệp, tăng 38,6% so với cùng kỳ năm trước. Điều này thể hiện niềm tin mạnh mẽ của doanh nghiệp vào ổn định vĩ mô và phục hồi kinh tế của Việt Nam”, ông Lê Trung Hiếu cho biết.
Kết quả điều tra xu hướng kinh doanh của các doanh nghiệp ngành công nghiệp chế biến, chế tạo quý IV/2022 cho thấy, có 48,7% số doanh nghiệp đánh giá xu hướng sẽ tốt lên so với quý III/2022 (quý III/2022 so với quý II/2022 có 38,6%); 46,8% số doanh nghiệp dự báo khối lượng sản xuất sẽ tăng (quý III/2022 so với quý II/2022 có 39,1%).
Theo TCTK, trong 9 tháng năm 2022, Việt Nam có 112,8 nghìn doanh nghiệp đăng ký thành lập mới với tổng số vốn đăng ký là 1.272,3 nghìn tỷ đồng, tăng 31,9% về số doanh nghiệp. Tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng năm nay là 3.908,2 nghìn tỷ đồng, tăng 36% so với cùng kỳ năm trước. Số doanh nghiệp rút lui khỏi thị trường là 112,7 nghìn doanh nghiệp, tăng 24,8% so với 9 tháng năm 2021.
Vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp thành lập mới trong 9 tháng năm nay đạt 11,3 tỷ đồng, giảm 19,4% so với cùng kỳ năm trước. Nếu tính cả 2.635,9 nghìn tỷ đồng vốn đăng ký tăng thêm của 38,7 nghìn lượt doanh nghiệp thay đổi tăng vốn, tổng số vốn đăng ký bổ sung vào nền kinh tế trong 9 tháng năm nay là 3.908,2 nghìn tỷ đồng, tăng 36% so với cùng kỳ năm trước.
Sở dĩ vốn đăng ký doanh nghiệp giảm hơn so với trước do nhiều doanh nghiệp vẫn gặp khó khăn về vốn, chi phí nguyên vật liệu xây dựng tăng cao. Vốn đăng ký bình quân mỗi doanh nghiệp thành lập mới trong tháng 9/2022 đạt 11,9 tỷ đồng, giảm 25,9% so với cùng kỳ năm 2021. Bên cạnh đó, giá nguyên vật liệu xây dựng tăng mạnh trong thời gian qua đã ảnh hưởng nhất định đến tiến độ thực hiện vốn đầu tư công, có tình trạng nhà thầu thi công cầm chừng để chờ giá vật liệu hạ nhiệt, nhất là những nhà thầu ký hợp đồng với đơn giá cố định.
Bên cạnh đó, còn có 50,5 nghìn doanh nghiệp quay trở lại hoạt động, tăng 56,1% so với 9 tháng năm 2021, nâng tổng số doanh nghiệp thành lập mới và doanh nghiệp quay trở lại hoạt động trong 9 tháng năm nay lên 163,3 nghìn doanh nghiệp, tăng 38,6% so với cùng kỳ năm trước. Bình quân một tháng có 18,1 nghìn doanh nghiệp thành lập mới và quay trở lại hoạt động.
Trao đổi với phóng viên báo Tin tức, bà Nguyễn Thị Hương, Tổng cục trưởng TCTK cho biết: Kinh tế Việt Nam đang phục hồi mạnh mẽ, thể hiện ở những chỉ tiêu cơ bản về tình hình kinh tế- xã hội quý III và 9 tháng vượt ngoài mong đợi: Tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước ( GDP) quý III ước đạt 13,67% so cùng kỳ; GDP 9 tháng tăng 8,83% so cùng kỳ và là mức tăng cao nhất của 9 tháng trong giai đoạn 2011 – 2022. Những con số tích cực này không chỉ của TCTK công bố mà các tổ chức nghiên cứu cũng cập nhật trong vòng 2 tuần qua.
Theo bà Nguyễn Thị Hương, động lực chính của sự tăng trưởng này đến từ các yếu tố sau: Thứ nhất, Việt Nam đã kiểm soát được tốt đại dịch COVID-19. Các chính sách đối phó với dịch bệnh tiếp tục có hiệu quả và các chính sách hỗ trợ sản xuất, mở cửa kịp thời là cơ sở cho các hoạt động kinh tế diễn ra bình thường, bình ổn tâm lý doanh nghiệp và người dân. Thứ hai, nhu cầu tiêu dùng đang phục hồi và gia tăng khi dịch bệnh được kiểm soát, người dân không còn bị hạn chế đi lại, được khuyến khích đẩy mạnh sản xuất, ổn định thu nhập; nhu cầu giải trí, du lịch tăng mạnh. Thứ ba, các dự án có vốn đầu tư nước ngoài (FDI) đang hoạt động tại Việt Nam tiếp tục mở rộng đầu tư.
“Trước sức ép lạm phát và giá cả tăng cao, Việt Nam vẫn đang từng bước ứng phó linh hoạt. Chính sách tiền tệ của Việt Nam được Ngân hàng Nhà nước điều hành thận trọng, chắc chắn, chủ động, linh hoạt và hiệu quả, góp phần kiểm soát lạm phát, ổn định tỷ giá, cải thiện thanh khoản ngân hàng, giúp hóa giải những cú sốc kinh tế vĩ mô, neo giữ được tâm lý kỳ vọng lạm phát của dân chúng và đạt được những mục tiêu về lạm phát mà Ngân hàng Nhà nước, Chính phủ đặt ra từ đầu năm”, Tổng cục trưởng TCTK cho biết.
Mặc dù đã đạt được nhiều thành tích khả quan nhưng theo dự báo của các chuyên gia kinh tế, quý 4/2022, kinh tế Việt Nam vẫn phải đối mặt với không ít thách thức.
Theo ông Lê Trung Hiếu, giá xăng dầu, lương thực, thép, phân bón… thế giới có dấu hiệu hạ nhiệt nhưng khó dự báo; thiếu hụt lao động cục bộ, nhất là lao động có tay nghề trong các doanh nghiệp lớn; thiếu hụt, gián đoạn nguồn cung, chi phí sản xuất, vận tải toàn cầu gia tăng…, tạo áp lực lên lạm phát, giá cả hàng hóa trong nước.
Video đang HOT
“Những yếu tố này chưa thể giải quyết dứt điểm trong ngắn hạn, trong khi tình hình hạn hán tại Trung Quốc, EU có thể ảnh hưởng lớn đến nguồn cung lương thực, vật tư công nghiệp đầu vào trên thế giới và ảnh hưởng đến sản xuất điện từ thuỷ điện tại Việt Nam. Điều hành tăng trưởng tín dụng cũng chịu sức ép lớn để kiềm chế lạm phát và nhu cầu vốn để phục hồi và mở rộng sản xuất, kinh doanh tăng cao nên nhiều doanh nghiệp vẫn gặp những khó khăn trong tiếp cận vốn vay”, Phó Tổng cục trưởng TCTK cho biết.
Hiện việc thu hút dòng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) gặp nhiều khó khăn. Cụ thể, tính đến ngày 20/9/2022, tổng vốn đăng ký cấp mới, điều chỉnh và góp vốn mua cổ phần, mua phần vốn góp của nhà đầu tư nước ngoài đạt hơn 18,7 tỷ USD, giảm 15,3% so với cùng kỳ năm 2021. FDI đăng ký cấp mới, đăng ký điều chỉnh và giá trị góp vốn mua cổ phần đạt 18,75 tỷ USD, giảm 15,3% so với cùng kỳ, ảnh hưởng đến tiềm năng mở rộng sản lượng của khu vực FDI, có thể tác động đến cán cân vãng lai, dự trữ ngoại hối, tỷ giá, thu hút công nghệ cao…trong trung và dài hạn.
Xuất khẩu đối mặt với thách thức không nhỏ, thị trường bị thu hẹp khi kinh tế Mỹ và nhiều nước phát triển có nguy cơ rơi vào suy thoái; số đơn hàng dệt may, gỗ, thủy sản… đi Mỹ và EU có dấu hiệu suy giảm; tồn kho gia tăng. “Hoạt động sản xuất, kinh doanh còn gặp nhiều khó khăn. Thị trường chứng khoán, trái phiếu doanh nghiệp, bất động sản tiềm ẩn nhiều rủi ro. Dịch Covid-19 còn tiềm ẩn khả năng diễn biến phức tạp”, ông Lê Trung Hiếu cho biết.
Theo các chuyên gia của TCTK, từ nay tới cuối năm, hoạt động xuất khẩu những tháng cuối năm sẽ phải đối mặt với nhiều khó khăn, thách thức khi các thị trường nhập khẩu hàng hóa lớn của Việt Nam như: Hoa Kỳ, EU chịu ảnh hưởng của lạm phát và nguy cơ suy thoái kinh tế, dẫn đến nhu cầu giảm, nhất là các mặt hàng tiêu dùng, gia dụng như đồ gỗ, may mặc…sẽ ảnh hưởng đến các ngành hàng xuất khẩu và cán cân thương mại, gây áp lực lên cân đối ngoại tệ của Việt Nam năm 2022.
Để thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong quý IV/2022, Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương cho rằng: Việt Nam cần phải thực hiện một số giải pháp như: Đẩy mạnh giải ngân kế hoạch vốn đầu tư công được giao; nhất là đối với các dự án trọng điểm, có tính lan tỏa cao, đồng thời tiết kiệm chi thường xuyên, chi sự nghiệp có tính chất đầu tư, các khoản chi chưa thực sự cần thiết. Cùng với đó, quyết liệt triển khai nhanh, hiệu quả chương trình phục hồi và phát triển kinh tế – xã hội, đặc biệt cần khẩn trương hướng dẫn, tháo gỡ vướng mắc, đẩy nhanh việc triển khai có hiệu quả chính sách hỗ trợ 2% lãi suất cho vay theo Nghị định 31/2022/NĐ-CP ngày 20/5/2022 của Chính phủ.
Ước tính đến hết tháng 8/2022, gói hỗ trợ này mới chỉ giải ngân được 13,5 tỷ đồng, tương đương chưa đến 0,1% kế hoạch giải ngân trong năm 2022. Việc triển khai gói cấp bù lãi suất 2% đang rất chậm so với kế hoạch của Chính phủ. Vì vậy, việc đẩy nhanh triển khai hiệu quả gói hỗ trợ lãi suất 2% là hết sức cần thiết trong bối cảnh lãi suất điều hành và lãi suất tiền gửi mới được Ngân hàng Nhà nước điều chỉnh tăng vào ngày 22/9/2022, sẽ bù đắp phần nào việc tăng lãi suất do sức ép từ việc tăng lãi suất huy động và có thể giúp giảm lãi suất cho vay.
“Việt Nam tiếp tục theo dõi sát diễn biến tình hình kinh tế thế giới, giá cả, lạm phát và các chính sách tiền tệ, tài khóa của các đối tác lớn trên thế giới, chủ động xây dựng các kịch bản và kịp thời ứng phó để hạn chế tối đa các ảnh hưởng, tận dụng cơ hội để vừa kiểm soát lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô vừa thúc đẩy phục hồi kinh tế. Ngoài ra, khai thác hiệu quả các Hiệp định thương mại tự do đã ký kết, triển khai hiệu quả các hoạt động xúc tiến xuất khẩu, kết nối cung cầu, xúc tiến thương mại, tháo gỡ rào cản, tạo thuận lợi cho tiêu thụ trong nước và xuất khẩu”, Tổng cục trưởng Nguyễn Thị Hương cho biết.
Cơ hội nhiều hơn thách thức với doanh nghiệp xuất khẩu gạo
Doanh nghiệp xuất khẩu gạo được nhận định có nhiều thuận lợi từ việc giá sản phẩm có xu hướng tăng trong thời gian tới.
Trong khi đó, giá cước vận chuyển cũng tăng phi mã cùng là thách thức mà doanh nghiệp đang gặp phải. Tuy nhiên thực tế cho thấy, những khó khăn này đã hiện hữu từ năm 2020, nhưng các doanh nghiệp ngành gạo đã vượt qua để có lợi nhuận tăng trưởng cao, thậm chí đạt mức kỷ lục nhiều năm.
Vận chuyển gạo xuất khẩu tại nhà máy chế biến gạo - Công ty TNHH MTV Lương thực Thoại Sơn (Tập đoàn Lộc Trời). Ảnh: Phạm Hậu/TTXVN
Xuất khẩu tăng mạnh
Theo thống kê sơ bộ của Tổng cục Hải quan, 2 tháng đầu năm 2022 lượng gạo xuất khẩu của cả nước đạt 974.556 tấn, tăng mạnh 48,6% so với 2 tháng đầu năm 2021, thu về gần 469,26 triệu USD, tăng 30,6%, giá trung bình đạt 481,5 USD/tấn, giảm 12%.
Các doanh nghiệp nhận định, thị trường xuất khẩu gạo trong năm nay sẽ thuận lợi hơn so với năm ngoái. Bởi, nhiều thị trường đang hồi phục sau đại dịch COVID-19. Nhiều chuỗi cung ứng từng bị đứt gãy do đại dịch cũng đang được kết nối lại, giúp cho sức mua bán tăng lên. Bên cạnh đó, căng thẳng Nga - Ukraine sẽ khiến cho nhiều nước tiếp tục quan tâm hơn tới việc dự trữ lương thực.
Dù 2 tháng đầu năm, tăng trưởng trong xuất khẩu gạo nhờ vào tăng khối lượng xuất khẩu. Nhưng đến tháng 3, giá gạo đã có xu hướng tăng mạnh.
Sở Giao dịch Hàng hóa Việt Nam (MXV) cho biết, giá gạo châu Á có diễn biến tăng mạnh và theo xu hướng chung của khu vực, giá gạo 5% tấm của Việt Nam tăng lên mức cao nhất kể từ tháng 12/2021, là 410 - 415 USD/tấn vào ngày 10/3, so với mức tương ứng 400 USD/tấn vào tuần trước đó, trong bối cảnh nhu cầu tăng và xung đột Ukraine-Nga khiến các khách hàng từ những nước khác thuộc châu Á chuyển sang mua gạo Việt Nam.
Bên cạnh đó, Hiệp hội Lương thực Việt Nam cho biết, mặt hàng phụ phẩm như tấm, cám gạo ở các địa phương đã có sự điều chỉnh tăng mạnh, trung bình từ 250-360 đồng/kg. Cụ thể, giá tấm 1/2 có giá cao nhất đã lên tới 8.300 đồng/kg, trung bình thị trường là 7.981 đồng/kg. Giá cám cũng lên tới 8.150 đồng/kg.
Việc giá các sản phẩm tấm, cám tăng lên một phần cũng bởi nguồn cung thức ăn chăn nuôi nhập khẩu gặp khó khăn, khiến nhu cầu các sản phẩm này thêm cao.
Việc giá gạo và các phụ phẩm từ gạo tăng cao được nhận định là có lợi cho doanh nghiệp. Nhưng ở chiều ngược lại, theo Tổng Giám đốc Công ty cổ phần nông nghiệp công nghệ cao Trung An, ông Phạm Thái Bình, vấn đề các doanh nghiệp lo lắng nhất hiện nay là chi phí cho logistics ngày càng cao hơn.
Nhiều doanh nghiệp đã không chào hàng giá CIF ( điều kiện giao hàng tại cảng xếp dỡ hàng) như trước mà chào giá FOB (điều kiện giao hàng miễn trách nhiệm của người bán khi hàng đã lên boong tàu) tại cảng Tp. Hồ Chí Minh. Bởi vậy, tình hình xuất khẩu gạo cũng khó do phí vận tải quá cao, doanh nghiệp phải tính toán kỹ hơn.
Theo MXV, chi phí vận chuyển đã tăng lên đáng kể từ khi xảy ra căng thẳng Nga-Ukraine, với chi phí vận chuyển hàng hóa quốc tế tăng 50% và chi phí vận chuyển hàng hóa nội địa tăng 70-80%.
Doanh nghiệp lãi đậm
Mỗi năm, nhà máy chế biến gạo - Công ty TNHH MTV Lương thực Thoại Sơn (Tập đoàn Lộc Trời) chế biến khoảng 100.000 tấn sản phẩm gạo đảm bảo chất lượng xuất khẩu. Ảnh: Phạm Hậu/TTXVN
Thực tế, những khó khăn của doanh nghiệp ngành gạo về chi phí vận chuyển tăng cao đã xuất hiện từ năm 2020. Nhưng nhiều doanh nghiệp ngành gạo đã tận dụng hiệu quả cơ hội để tăng giá trị xuất khẩu, từ đó đạt doanh thu và lợi nhuận cao.
Thời điểm này, các doanh nghiệp ngành gạo chưa ra báo cáo kết quả kinh doanh quý I/2022, nhưng nhìn vào doanh thu và lợi nhuận đạt được năm 2021 có thể thấy, doanh nghiệp gạo đang "ăn nên làm ra".
Cụ thể năm 2021, lợi nhuận ròng của Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời (mã chứng khoán: LTG) đạt hơn 421 tỷ đồng, tăng 14% so với năm 2020. Đây cũng là mức lợi nhuận cao nhất trong 7 năm trở lại đây của doanh nghiệp gạo này.
Công ty cổ phần Tập đoàn Lộc Trời hiện vận hành hệ thống 24 nhà máy sở hữu và liên kết trên khắp Đồng bằng sông Cửu Long với năng lực sấy gần 26.000 tấn/ngày, xay xát hơn 22.000 tấn/ngày cùng với sức chứa 1 triệu tấn đáp ứng được nhu cầu khối lượng lớn từ các thị thường khó tính như: châu Âu, Mỹ, Nhật Bản.
Tiếp đến, Công ty cổ phần Xuất nhập khẩu An Giang - Angimex (mã chứng khoán: AGM) có doanh thu và lợi nhuận trước thuế năm 2021 ước đạt 3.903 tỷ đồng và 47,36 tỷ đồng, lần lượt tăng 80% và 35% so với kế hoạch đề ra trước đó.
Tính riêng quý IV/2021, doanh thu của Angimex đạt 1.570 tỷ đồng, tăng gấp 3,5 lần so với cùng kỳ. Lợi nhuận trước thuế đạt 24,86 tỷ đồng, trong khi cùng kỳ năm 2020, còn số này chỉ là 5,8 tỷ đồng.
Trước kết quả kinh doanh khả quan này, Angimex đặt chỉ tiêu doanh thu năm 2022 đạt 8.004 tỷ đồng, lợi nhuận trước thuế cũng 70 tỷ đồng; lần lượt tăng gấp đôi và tăng 48% so với ước thực hiện năm 2021.
Công ty cổ phần Tập đoàn Giống cây trồng Việt Nam - Vinaseed (mã chứng khoán: NSC) cũng báo cáo có doanh thu 1.931 tỷ đồng trong năm 2021, tăng 18,1% so với năm trước đó. Lợi nhuận trước thuế đạt 249 tỷ đồng, hoàn thành 94% kế hoạch. Lợi nhuận sau thuế gần 226 tỷ đồng, tăng 15,8% so với năm 2020. Doanh nghiệp cho biết, lợi nhuận tăng cao là do công ty mở rộng thêm được thị trường gạo và xuất khẩu gạo.
Một trong những doanh nghiệp đầu ngành xuất khẩu gạo là Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (mã chứng khoán: TAR). Năm ngoái, công ty có kết quả kinh doanh rất khả quan. Cụ thể, công ty đạt doanh thu 3.120 tỷ đồng, tăng 15% so với năm 2020, lãi sau thuế 101 tỷ đồng, tăng 15% so với cùng kỳ năm trước đó.
Thậm chí quý IV/2021, lãi sau thuế của doanh nghiệp còn gấp 7 lần cùng kỳ năm 2020, đạt 43,7 tỷ đồng. Thực tế, doanh nghiệp liên tục ghi nhận tăng trưởng lợi nhuận trong những năm qua dù phải đối phó với khó khăn từ dịch COVID-19.
Theo Công ty cổ phần Chứng khoán SSI (SSI), hoạt động kinh doanh chính của Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An (mã chứng khoán: TAR) là bán các loại gạo, bao gồm cả gạo có thương hiệu và gạo xá.
Công ty tiêu thụ 85% sản lượng gạo nội địa và 15% còn lại là xuất khẩu. Tại thị trường nội địa, công ty cung cấp gạo cho các đại lý gạo và chuỗi siêu thị Winmart.
Các thị trường xuất khẩu chính bao gồm Trung Quốc chiếm 27%, Malaysia chiếm 25%, Hong Kong (Trung Quốc) chiếm 12,8% và Philippine chiếm 10%. Công ty có xuất khẩu sang thị trường châu Âu, nhưng hiện tỷ trọng vẫn chưa nhiều, chỉ chiếm 5%.
Trong năm 2021, công ty đã trúng thầu xuất khẩu 48 nghìn tấn gạo sang thị trường Hàn Quốc. Đơn hàng này sẽ được xuất đi trong khoảng nửa đầu năm 2022.
Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An hiện có 6 nhà máy gạo tại Cần Thơ với tổng công suất 360 nghìn tấn gạo/năm. Công ty thu mua lúa từ nông dân trong vùng liên kết, sau đó đưa vào chế biến và sản xuất ra gạo.
Theo SSI, các tỉnh Cần Thơ, Kiên Giang, Sóc Trăng, An Giang và Đồng Tháp có chủ trương giao cho doanh nghiệp 50 nghìn ha để thực hiện liên kết bao tiêu giữa hộ nông dân và doanh nghiệp. Hiện tại đã thực hiện được khoảng 20 nghìn ha.
Với những kết quả này, Hội đồng quản trị Công ty cổ phần Nông nghiệp công nghệ cao Trung An đặt mục tiêu doanh thu thuần năm 2022 đạt 3.500 tỷ đồng và lợi nhuận sau thuế đạt 600 tỷ đồng, tăng gần 6 lần so với kế hoạch năm 2021.
Nhờ kết quả kinh doanh tích cực và triển vọng sáng của ngành gạo năm 2022, trên thị trường chứng khoán, các cổ phiếu ngành lúa gạo hầu hết tăng giá dù thị trường chứng khoán diễn biến không mấy tích cực. Tính từ cuối năm 2021 đến hết phiên 17/3, LTG tăng gần 11%, NSC tăng 15,6%, AGM tăng hơn 60%. Ở chiều ngược lại, TAR giảm hơn 9,6%.
Thành lập Trung tâm báo chí Thủ đô Hà Nội Trung tâm Báo chí Thủ đô Hà Nội là đơn vị sự nghiệp công lập có thu, trực thuộc Sở Thông tin và Truyền thông TP Hà Nội, có tư cách pháp nhân, con dấu và tài khoản riêng... UBND TP Hà Nội vừa ra Quyết định số 2302/QĐ-UBND về việc thành lập Trung tâm Báo chí Thủ đô Hà Nội trên cơ...