Ký ức về những ngày đưa “voi sắt” tới Điện Biên Phủ
“Đã bắn là phải bắn thật trúng, sao cho giặc Pháp phải thực sự khiếp sợ pháo binh ta!” Lời căn dặn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp như vẫn văng vẳng bên tai Đại tá Đỗ Sâm – người chiến sỹ pháo binh trong chiến dịch Điện Biên Phủ năm xưa.
Ký ức về thời “hoa lửa” ấy của người cựu binh già không chỉ là những ngày đêm “khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt” mà còn là câu chuyện về những người lính vượt thác ghềnh, đưa vũ khí từ bên kia biên giới về nước, phục vụ chiến dịch Điện Biên Phủ.
Người lính nhỏ và chú “voi sắt”
Tiếp chuyện người khách trẻ với phong thái điềm đạm, nho nhã nhưng cũng rất hóm hỉnh, Đại tá Đỗ Sâm bảo: “Ngày ấy, vóc dáng tôi cũng nhỏ bé thế thôi; nhưng tôi đã trực tiếp tham gia đưa &’voi sắt’ về chiến trường Điện Biên đấy!”
Ngược dòng thời gian, ngày ấy, người lính trẻ Đỗ Sâm là một trinh sát pháo binh thuộc Trung đoàn trọng pháo cơ giới Tất Thắng (Đại đoàn 351) trong chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ. Vị Đại tá nhớ lại, trong thời gian từ tháng 8/1951- 12/1952, đơn vị của ông được cử sang Vân Nam (Trung Quốc) chỉnh huấn quân sự.
“Cuối năm 1952, trước khi lên đường về nước, Trung đoàn pháo binh Tất Thắng nhận được từ phía Quân giải phóng nhân dân Trung Quốc 20 khẩu trọng pháo 105 mm, hơn 30 chiếc xe ôtô G.M.C và trang thiết bị chiến đấu khác. Đó đều là các loại vũ khí thu được của quân Tưởng Giới Thạch, sau này được quân ta sử dụng trong chiến dịch Điện Biên Phủ,” Đại tá Đỗ Sâm hồi tưởng lại.
Theo lời kể của ông, mỗi khẩu trọng pháo, mỗi chiếc ôtô ấy đều có “lý lịch” rất cụ thể (thu được của quân Tưởng Giới Thạch trong trận đánh nào, ở địa điểm nào…). “Những đoạn &’lý lịch’ ấy để nhắc nhở mỗi chiến sỹ phải biết quý trọng vũ khí. Bao máu xương đã đổ xuống để có được chúng,” giọng ông nghẹn lại, ánh mắt dõi về phía xa xăm.
Nhiệm vụ khó khăn, nguy hiểm đặt ra với người lính trẻ Đỗ Sâm và đồng đội: Đưa số vũ khí trên về nước đảm bảo an toàn. Theo đó, một cuộc hành quân cơ giới được triển khai.
Trong ký ức của người cựu binh già, đây là một hành quân kỳ diệu, được Tổng tham mưu trưởng Hoàng Văn Thái (khi tới kiểm tra kết quả hành quân của trung đoàn vào ngày 19/5/1953) khen rằng: “Đó là một cuộc hành quân sáng tạo, táo bạo chưa từng có trong lịch sử.”
Đầu năm 1953, Trung đoàn pháo binh Tất Thắng về tới Bảo Hà (Lào Cai). Thời kỳ đó, toàn bộ tuyến đường quốc lộ từ Lào Cai về Yên Bái bị giặc Pháp đánh bom phá hỏng. Không thể tiếp tục hành quân bằng đường bộ, Bộ chỉ huy quyết định tiếp tục chuyển vũ khí về theo đường thủy.
Mỗi “chú voi sắt” – trọng pháo 105 mm (nặng hơn hai tấn), mỗi chiếc ôtô (nặng hơn năm tấn) được chiến sỹ tháo rời các bộ phận. Từ vùng bến Bảo Hà-Thíp (Lào Cai), các loại vũ khí này được đưa lên thuyền, bè; xuôi theo sông Hồng về căn cứ của quân ta ở Âu Lâu (Yên Bái).
“Chặng hành quân trên sông Hồng dài khoảng 100 km với nhiều thác, ghềnh hiểm trở đúng như tên gọi: Miệng Hổ, Cối Xay… Khó khăn nhân lên nhiều lần khi toàn bộ hoạt động ấy chỉ được diễn ra vào ban đêm, để đảm bảo bí mật,” Đại tá Đỗ Sâm bồi hồi nhớ lại.
Đại tá Đỗ Sâm bên những trang sách về chiến dịch Điện Biên Phủ (Ảnh: An Ngọc/Vietnam )
Ông kể, mỗi chuyến đi như vậy chỉ chuyển được từ hai đến ba khẩu pháo hoặc xe ôtô. Sau gần ba tháng (đến cuối tháng 4/1953), cuộc hành trình trên sông mới kết thúc. “Chỉ ít ngày sau đó, tất cả những con người và số vũ khí, trang thiết bị chiến đấu ấy lại cùng lên đường, tiến về Điện Biên, góp phần làm nên chiến thắng vang dội của dân tộc,” người lính già nở nụ cười hiền hậu và kể.
“Đã bắn là phải bắn thật trúng!”
Video đang HOT
Ký ức ùa về, người trinh sát pháo binh năm xưa kể, Trung đoàn trọng pháo cơ giới Tất Thắng (Đại đoàn 351) tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ từ những ngày đầu.
“Tôi còn nhớ như in lời dặn của Đại tướng Võ Nguyên Giáp với anh em trong đơn vị vào ngày mồng Ba Tết Giáp Ngọ (1954) rằng, trong chiến dịch lần này, quân địch rất bất ngờ vì đây là lần đầu tiên hỏa lực lớn (trọng pháo 105 mm và pháo cao xạ 37 mm) của ta xuất hiện trên chiến trường. Đã bắn là phải bắn thật trúng, sao cho giặc Pháp phải thực sự khiếp sợ pháo binh ta!” Đại tá Đỗ Sâm kể đầy tự hào.
Thời điểm mở màn chiến dịch được ấn định là 17 giờ ngày 13/3/1954.
“Nhận được thư động viên của Hồ Chủ tịch, &”Nhiệm vụ của các chú lần này rất to lớn, khó khăn nhưng cũng rất vinh quang…’ anh em chiến sỹ được tiếp thêm sức mạnh trước &’giờ G.’ Tôi sẽ không bao giờ quên được khí thế sục sôi của ngày hôm ấy; tất cả ra trận với một niềm tin quyết thắng.” Giơ bàn tay nắm chặt về phía trước, giọng mạch lạc, người chiến sỹ Điện Biên năm xưa như đang “truyền lửa” cho người đối diện.
Đại tá Đỗ Sâm kể, mỗi đơn vị pháo binh được phép bắn thử hai phát đạn vào mục tiêu đầu tiên. Ngay trong ngày mở màn chiến dịch, nhiều máy bay, xe tăng của địch đã bốc cháy.
Trung đoàn trọng pháo cơ giới Tất Thắng nhận lệnh kiềm chế pháo binh của địch khi chúng đang chi viện cho bộ binh chiến đấu. Những phát đạn đầu tiên từ những khẩu trọng pháo 105 mm của đơn vị đều rơi trúng điểm Him Lam, buộc hai chiếc xe tăng và bộ binh địch đang trên đường lên chi viện phải rút trở về trung tâm Mường Thanh.
“Liên tiếp những ngày sau đó, hàng trăm phát đạn bắn thẳng vào trận địa địch, tạo thành những tiếng nổ vang trời,” quá khứ oai hùng như thước phim quay chậm mở ra trước mắt người cựu chiến binh.
Mặc dù Đại tá Đỗ Sâm đã ở tuổi ngoài bát tuần nhưng ký ức về những ngày tham gia chiến dịch lịch sử Điện Biên Phủ vẫn vẹn nguyên trong ông. “Tôi đã, đang và sẽ tiếp tục viết về những con người, những câu chuyện của thời kỳ oai hùng ấy,” ông chia sẻ.
Đại tá Đỗ Sâm là tác giả của nhiều tập sách về lịch sử quân sự, về những tấm gương anh dũng trong chiến đấu như: “Người chiến sỹ ấy,” “Thư thời chiến,” “Những tấm gương tiêu biểu của thời đại Hồ Chí Minh”…./.
Theo VietnamPlus
Bí mật chiến thắng Điện Biên Phủ - Kỳ 1: Chuyện 'bếp núc' tiếp sức chiến thắng
Ông Trần Thịnh Tần năm nay 83 tuổi. Ông bước chân vào cuộc kháng chiến chống Pháp từ những ngày đầu tiên của tuổi 20. Sau chiến dịch Hòa Bình, ông lên Điện Biên Phủ, tham gia vào trận đánh lớn lịch sử khi làm việc ở Tổng cục Cung cấp (sau này là Tổng cục Hậu cần, trực thuộc Bộ Quốc phòng).
Ông Trần Thịnh Tần (83 tuổi) từng phục vụ trong chiến dịch Điện Biên Phủ - làm ở Tổng cục Cung cấp
Không trực tiếp cầm súng lao lên phía trước, nhưng những trải nghiệm và công việc của ông - như hàng chục ngàn người trẻ khác - khi đong từng lon gạo, góp từng đợt xe, đã góp phần làm nên một chiến dịch thắng lợi.
5.000 tấn gạo cho "đánh nhanh, thắng nhanh"
Ông Tần chỉ vào tấm ảnh cũ, kể: "Khi chúng tôi vào trường sĩ quan, làm gì có súng, chỉ có xài súng tre tập thay. Đi lính mà phải mang quần áo từ nhà đi. Mua thêm đôi dép cắt từ lốp cao su đi cho bền. Sau đi lính mới được 2 bộ quần áo một năm, mà quần áo lót thì chưa có. Tóm lại là mình nghèo lắm".
Ông Trần Thịnh Tần làm ở Tổng cục Cung cấp của chiến dịch Điện Biên Phủ khi ông mới 23 tuổi. Sau Điện Biên Phủ, ông mang hàm đại tá, Cục trưởng Cục Quân trang - Tổng cục Hậu cần, làm việc cho đến khi nghỉ hưu và sống với các cháu nội ở TPHCM. Những lần quay về Điện Biên Phủ, gặp gỡ lại bạn bè, người trong cùng chiến dịch, với ông lại là một vùng kỉ niệm tuổi trẻ đáng nhớ và xúc động.
Khi ấy, 3 điểm vận tải ở đèo Cò Nòi, Lũng Lô, Pha Đin là những điểm nóng của người làm việc cung cấp, hậu cần. Ô tô chở hàng chỉ chở được 1,5 tấn, đi qua không biết bao nhiêu điểm đánh phá, đánh sập đường của Pháp. Những chiếc xe không chịu nổi đường xá, chỉ còn chở được 1 tấn hàng/chuyến.
Những người ở Tổng cục Cung cấp nghĩ ra chuyện xài đến tre, chặt ra, dằn vào gầm để chống sóc. Thùng xe cũng được phủ bởi các thanh tre chặt rải ra để đảm bảo cho hàng hóa. Xe đạp mỗi chiếc chở 1- 2 tạ.
Trên không là của Pháp, bên dưới người Việt hoạt động. Ông Tần kể: "Cứ đến 4 giờ chiều, sương mù phủ kín là mặt đường râm ran hết cả. Đi ngoài đường từ Cò Nòi lên các trọng điểm cứ nghe tiếng cười nói, đùa giỡn của những chuyến thồ hàng, mang vác. Một chặng như thế khoảng 25 km, từ 16 giờ chiều đến 10 giờ sáng là của ta, còn sau đó lại ẩn nấp".
Sau giai đoạn chuẩn bị cho "đánh nhanh thắng nhanh" đầu tháng 1.1954, đến ngày 26.1.1954, khi Đại tướng Võ Nguyên Giáp tuyên bố chuyển sang "đánh chắc thắng chắc", hàng loạt "chuyển động" khác phải diễn ra ở hậu tuyến và trung tuyến để chuẩn bị cho một đợt chiến dịch với quy mô khác hẳn.
Ông Tần kể: "Ban đầu chỉ nghĩ chiến dịch 3 ngày nên chúng tôi chỉ chuẩn bị 4.000 - 5.000 tấn gạo. Khi thay đổi chiến lược, phải đau đầu tìm cách huy động gạo cho chiến dịch".
... giữa trái tim nhân dân
Đại tướng Võ Nguyên Giáp trong chuyến đi khảo sát các công việc của Tổng cục Cung Cấp. Đại tướng đang tham quan chiếc máy sấy khô khoai mì do các nhân công, thanh niên xung phong tự chế ra - Ảnh chụp lại từ tư liệu do ông Trần Thịnh Tần cung cấp
Ông Trần Thịnh Tần (thứ 2 từ phải qua), trong buổi gặp gỡ với Đại tướng Võ Nguyên Giáp tại Điện Biên Phủ - Ảnh chụp lại từ tư liệu do
ông Trần Thịnh Tần cung cấp
Chiếc máy ép khoai mì thành sợi như sợi mì là sáng kiến để bộ đội có thể có bữa ăn dễ chịu hơn trong hoàn cảnh thiếu thốn - Ảnh chụp lại
từ tư liệu do ông Trần Thịnh Tần cung cấp
Ông Trần Thịnh Tần trong chuyến đi trở lại thăm Điện Biên Phủ sau 55 năm chiến thắng - Ảnh chụp lại từ tư liệu do ông Trần Thịnh Tần cung cấp
"Lúc đầu chúng tôi định vận động bà con Tây Bắc khoảng 6.000 tấn thôi, vì đồng bào Tây Bắc mới giải phóng, nghèo lắm. Khi đánh Điện Biên, ở trên có chủ trương đi vận động chứ không ép buộc bà con vì dân Tây Bắc nghèo lắm. Cuối cùng, hóa ra bà con các dân tộc ủng hộ đến 10.000 tấn lúa".
"Chiều đến cứ ra mặt đường tôi thấy đông như hội, dân công, bộ đội xay xát, hát hò như một công trường khổng lồ. Pháp đi trên không quan sát, tiếp tế bằng máy bay, còn ta ở dưới này cứ xay gạo. Đi chiến dịch mà như đi trẩy hội. Xay xát cả ngày đêm tại mặt trận như thế mới hết được 10.000 tấn lúa chứ" - ông Trần Thịnh Tần nhớ lại.
Theo ông, đồng bào Tây Bắc chỉ có lúa, không có gạo vì ở đó họ dùng cối xay nước giã suốt ngày, ăn ngày nào chỉ giã ngày đó, sàng sảy ra rồi ăn cho hôm sau. Lúc tụi tôi đi vận động, bà con nói: "Bộ đội xin gạo thì không có, nhưng lúa thì sẵn lắm". Vậy thì mình đành lấy lúa, 10.000 tấn lúa rải rác ở các kho trong rừng".
Các đội thanh niên xung phong và dân công hàng chục ngàn người đã gọi nhau, thu gom những người có nghề, biết đóng cối xay gạo lại. Giữa rừng, hàng trăm điểm xay xát, giã gạo lần lượt mọc lên. Mặc dù cách Điện Biên Phủ chỉ 5 - 6 km đường chim bay nhưng những công trường này là bí mật khổng lồ của chiến dịch.
Ông Tần nhớ lại: "Chiều đến cứ ra mặt đường tôi thấy đông như hội, dân công, bộ đội xay xát, hát hò như một công trường khổng lồ. Pháp đi trên không quan sát, tiếp tế bằng máy bay, còn ta ở dưới này cứ xay gạo. Đi chiến dịch mà như đi trẩy hội. Xay xát cả ngày đêm tại mặt trận như thế mới hết được 10.000 tấn lúa chứ".
10.000 tấn lúa đã trở thành 7.000 tấn gạo cung cấp cho chiến dịch. Tình thương của người dân tộc Tây Bắc đã khiến thương vong và hiểm nguy giảm đi gấp ngàn lần.
Cứ mỗi chuyến xe 1 tấn từ Việt Bắc, Thanh Hóa đi lên, qua 600-800 km là bao nhiêu công sức, xương máu, giờ đã có hẳn những cót gạo khổng lồ nằm giữa núi, trong hẻm núi, trong rừng... của người dân tộc cho, chỉ cần tập kết lại các kho và đợi bộ đội đến giờ tới lấy.
Nỗ lực của những người ở trung tuyến, hậu tuyến, không giáp mặt đánh nhau, nhưng phải mưu mẹo, tháo vát, nghĩ ra rất nhiều thứ giúp sức cho bộ đội.
Gạo người Tây Bắc cho là gạo nếp, nấu cơm nếp ăn mãi bị nóng cổ, gạo tẻ trở thành quý hiếm, chỉ dành cho người bệnh. Lúc ấy, nhà bếp lại nghĩ ra dùng lá chuối quây nồi cơm lại thành cái chõ đồ xôi giống nhà đồng bào, nếp nấu ra ăn ngon hơn hẳn và không bị nóng rát cổ nữa.
Khoai sắn có trong kho, người của Tổng cục Cung cấp phải nghĩ ra máy sấy khoai mì cho khô để cho bộ đội có lương khô ăn dần trên đường đi. Xong máy sấy, người của ông Tần lại phải nghĩ ra máy ép sợi, biến khoai mì thành sợi như mì gói bây giờ, xong sấy khô qua lò, khi ăn chỉ cần chan nước vào là ăn được.
Cái đói khổ, nghèo nàn vây lấy chiến dịch, nhưng những con người quen chịu khổ, quen suy nghĩ lại tìm được cách để tồn tại trong sự khắc nghiệt lớn nhất.
Ở Tây Bắc hồi ấy, có nhiều chỗ là "quán tự giác", bà con dân tộc để chuối, xôi, đồ ăn ra ngoài rìa đường, ai đi ngang qua ăn thoải mái, ăn xong thì cứ trả tiền theo ý mình thích, chẳng ai lấy cắp của nhau.
Ông Tần kể: "Bộ đội chúng tôi đến ngủ nhờ lúc nào bà con cũng có chỗ, trên vách lúc nào cũng có sẵn 3 cái "típ" (giỏ) xôi, có nắp đậy, tụi tôi đến là được có ăn. Bộ đội với bà con thân thuộc như người nhà vậy. Mỗi khi tụi tôi bị sốt rét, lại xin vào nhà bà con dân tộc ngủ. Bà con chăm sóc chu đáo, dùng lá thuốc cứu chữa bệnh sốt rét, chứ họ đâu có thuốc tây gì đâu, có gì ngon cũng moi ra cho người ốm ăn. Họ không giàu có gì nhưng hết lòng giúp đỡ".
Những chuyện "bếp núc" hết chiến dịch thì cũng xong. Hàng chục ngàn dân công và thanh niên xung phong khi ấy đã là "cái giá đỡ" sức bền cho bộ đội trong chiến dịch. (còn tiếp)
Theo TNO
Người lính đầu tiên nã đạn xuống cứ điểm Him Lam 95 tuổi, bước đi không vững nhưng cựu binh Nguyễn Huy Mẫn vẫn nhớ như in những ký ức về trận pháo kích mở màn của quân ta trong chiến dịch Điện Biên Phủ 1954. Ở cái tuổi xưa nay hiếm, mắt mờ, chân run nhưng khi được hỏi về trận pháo kích vào trung tâm đề kháng Him Lam (Điện Biên Phủ,...