Ký ức bi hùng về sự ra đi vĩnh viễn của 39 học sinh K8
Trong cuộc “vạn lý trường chinh” có một không hai trong lịch sử cách đây gần 50 năm, có những câu chuyện thấm đẫm nước mắt của sự chia ly, khắc khoải. Nhưng đau đớn nhất là sự ra đi vĩnh viễn của 39 học sinh K8, để lại sự day dứt cho người thân.
Trước sự đánh phá hết sức ác liệt của bom, đạn Mỹ dội xuống vùng đất Vĩnh Linh, theo chỉ thị của Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ đối với Khu ủy Vĩnh Linh về quyết định sơ tán đồng bào khu vực Vĩnh Linh, một phần của Gio Linh, Cam Lộ, Quảng Trị ra khỏi vùng chiến tranh. Kế hoạch 8, kế hoạch 10 với mật danh K8, K10 ra đời, với việc di chuyển hơn 4,6 vạn người già, phụ nữ có con nhỏ và trẻ em ra miền Bắc sinh sống. Trong đó, kế hoạch K8, được thực kiện với mục đích đưa gần 3 vạn học sinh, con em đi sơ tán, học tập nhằm bảo vệ các “hạt giống đỏ” của quê hương.
Chuyến xe định mệnh…
Trong câu chuyện đẫm nước mắt về hành trình K8 gần 50 năm trước, chúng tôi đã gặp những nhân chứng lịch sử – người may mắn đã sống sót trên chuyến xe định mệnh chở 40 học sinh của xã Vĩnh Hiền, huyện Vĩnh Linh bị trúng bom toạ độ tại Võ Ninh (Quảng Bình), 39 học sinh đã chết. Hai người may mắn sống sót trên chuyến xe ấy gồm một thầy giáo và một học sinh. Hiện nay, tuổi của họ cũng đã cao.
Trong ngày khánh thành ngôi mộ chung của các học trò, người thầy giáo năm xưa không dấu được niềm xúc động lẫn sự day dứt. Hồi tưởng lại quá khứ đau buồn, thầy giáo Nguyễn Văn Lý (quê ở xã Vĩnh Hiền) người đã mang trên mình trách nhiệm dẫn 40 học sinh di chuyển ra Bắc, cho biết: “Thực kiện kế hoạch K8, nhằm bảo vệ những “hạt giống” cho gia đình và cho đất nước, học sinh Vĩnh Linh di tản theo 2 đợt, đợt đầu là giữa năm 1966 và đợt tiếp theo vào tháng 7/1967. Năm 1967, nhóm học sinh Vĩnh Hiền, Vĩnh Linh được bố trí lên 2 xe để thực hiện hành trình di chuyển ra Bắc. Trước khi đi, các em chỉ mang một ít vật dụng cá nhân và thức ăn để dùng trên đường. Tôi cùng một thầy khác được phân công dẫn theo 40 em nữa đi trên chuyến xe đầu tiên, xuất phát từ Vĩnh Linh. Do lúc đó các em mới tầm 6-7 tuổi, lần đầu xa người thân nên em nào cũng khóc và đòi quay trở về. Tuy nhiên, vào ngày 28/7/1967, khi đoàn vừa ra đến Quảng Bình thì chuyến xe của tôi bị trúng bom toạ độ của địch và bốc cháy. Tôi và một em may mắn còn sống, còn lại 39 em khác và một giáo viên đã bị chết”.
Sau gần 50 năm, ký ức về hành trình K8 định mệnh vẫn chưa thể phai trong tâm trí của thầy Lý (áo trắng) và ông Khỏe (người cầm míc)
Dù thời gian đã qua rất lâu nhưng mỗi khi nhắc lại quá khứ, thầy Lý đều khóc. Ông nói bản thân ông cũng không thể ngờ được sự việc đau buồn trên. Mang trách nhiệm dẫn các em đi, cũng là người dạy các em nhưng lại không che chở được các em trước bom đạn. Nhưng sự việc xảy ra quá bất ngờ, là điều không ai mong muốn. Các em ra đi khi tuổi còn quá nhỏ, được Đảng và Nhà nước đặt nhiều kỳ vọng để sau này lớn lên quay trở về phục vụ quê hương, nhưng phải vĩnh viễn nằm lại trên mảnh đất Quảng Bình yêu dấu.
Là học sinh duy nhất sống sót trên chuyến xe định mệnh, ông Trần Văn Khỏe, hiện đang công tác tại Tỉnh đội Quảng Trị cũng xúc động không kém. Lúc chiếc xe gặp nạn, ông mới chỉ là một thiếu niên, lại bị thương và bất tỉnh nên không nhớ rõ những gì đã diễn ra. Tuy nhiên, mỗi khi nhắc lại sự việc đau buồn này ông đều không cầm nổi lòng mình. “Tôi may mắn được sống, còn những người bạn của tôi đã mãi mãi nằm xuống. Phải đến 2 năm sau tôi mới biết được sự việc. Bản thân tôi luôn cảm thấy day dứt khi những thi thể của bạn mình đã không được nguyên vẹn. Nhưng chiến tranh là vậy, đau thương mất mát xảy ra quá bất ngờ nên không ai có thể lường trước. Sau ngày hòa bình, những phần mộ đó mới được tập hợp lại để đưa về an nghỉ tại quê hương. Và hôm nay, ngôi mộ đó của các bạn tôi được nâng cấp, xây dựng chu đáo, cá nhân tôi cũng cảm thấy nhẹ lòng hơn”.
Bao nhiêu năm qua, bà Em vẫn lưu giữ cẩn thận kỷ vật của con trai
Gần 50 năm qua, bà Nguyễn Thị Em (83 tuổi) vẫn lưu lại kỷ vật của người con là Lê Hùng, người đã mất trên chuyến xe định mệnh năm ấy. Kỷ vật duy nhất được bà giữ gìn cẩn thận suốt ngần ấy năm là chiếc ba lô do chính tay bà đã may cho con từ tấm vải áo được cắt ra. Một thời gian sau khi xảy ra sự việc, gia đình bà mới nhận được kỷ vật của con trai. Dù nó đã rách làm 2 nhưng đối với bà là biết bao tình cảm lớn lao nhất giữa mẹ và con.
Bà Em cho biết: “Trước khi đi tui may cho con để đựng một quần áo và quyển sách. Nhưng khoảng một tuần sau, gia đình mới biết tin con gặp nạn cùng 38 bạn khác. Nghe tin dữ tui đau đớn vô cùng. Đây là kỷ vật duy nhất còn lại của con. Suốt bao năm qua, lúc nào nhớ con là tui lại mang tấm vải này ra. Càng nhìn nó lòng tui đau như cắt, nước mắt chảy giàn dụa”.
Ký ức bi hùng
Chúng tôi đã được gặp rất nhiều nhân chứng từng trải qua hành trình gian khó K8, cả những người nhận trách nhiệm thực hiện kế hoạch này. Trong số họ, có những người đã thành danh và đang phục vụ quê hương đất nước, nhưng phần lớn đã mất vì bom đạn của quân thù, chưa kể một số cũng bị mất do bệnh tật, hiểm nguy trong suốt hành trình.
Video đang HOT
Thật khó có thể kể hết những vất vả, gian khó trong hành trình vượt hàng trăm km mà những học sinh K8 thời đó đã trải qua. Mỗi giây phút trên chuyến hành trình bi tráng ấy, họ luôn phải đối mặt với hiểm nguy từ bom đạn quân thù ngày đêm rình rập.
Bà Lê Thị Thắm (63 tuổi, người đi chiếc xe sau) kể lại: “Lúc đó, tôi đã 12 tuổi, theo kế hoạch sẽ di chuyển ra Thái Bình. Ngày 25/7, xe chúng tôi xuất phát ra đến Vĩnh Chấp nghỉ lại. Đến 2 ngày sau mới đi tiếp, nhưng khi đến Mỹ Trung, Quảng Bình thì xe gặp nạn. Thấy như vậy chúng tôi hoảng hốt lắm, đứa nào cũng khóc thét lên. Nhưng nhờ các thầy trên xe trấn an nên mọi người mới lấy lại được bình tĩnh”.
“Đoàn chúng tôi dừng chân tại Quảng Bình một ngày rồi mới tiếp tục di chuyển ra Bắc. Khi di chuyển thì thường đi ban đêm, có giao liên dẫn đường vì đi ban ngày sợ máy bay tập kích. Trong quá trình vượt đèo, lội suối, có người trong chúng tôi sợ quá định quay về. Nhưng lúc đó còn nhỏ, biết đường đâu mà về nên đành cố bước đi. Nhiều lúc chúng tôi cảm thấy rất nhớ nhà, nhớ người thân, có người bị sốt cao và được các thầy chăm sóc tận tình. Những chuyến vượt rừng vào ban đêm, nghe tiếng ve kêu, vượn hú…luôn là nỗi sợ hãi trong chúng tôi” – bà Thắm nói tiếp.
Nhiều người đi theo kế hoạch K8 chia sẻ: “Những ngày tháng gian khó đó đã cho chúng tôi một nghị lực sống. Nhờ đó, chúng tôi đã lớn lên”. Có thể nói rằng, chiến tranh đã tôi luyện nên những người con K8 có đủ bản lĩnh để vượt lên nghịch cảnh. Cũng chính trong cuộc trường chinh lịch sử ấy, tại những miền quê họ sống và đi qua, những học sinh K8 đã nhận được biết bao sự bảo bọc, chở che và tình thương yêu sâu sắc của đồng bào.
Ngôi mộ tập thể 39 học sinh K8
Để tưởng nhớ 39 học sinh K8, Hội cựu chiến binh, Đoàn thanh niên huyện Vĩnh Linh, Quảng Trị đã đóng góp xây dựng và hoàn thành công trình bia tưởng niệm và khu mộ tập thể những học sinh K8. Công trình này có ý nghĩa vô cùng to lớn trong việc tập hợp các phần mộ học sinh K8 đang nằm rải rác về tập trung. Đây sẽ là địa điểm để người dân trong tỉnh đến thăm, thắp hương và tưởng niệm con em mình, cũng như giáo dục truyền thống cách mạng cho thế hệ trẻ hôm nay về một thời kì ác liệt trong chiến tranh
Đăng Đức
Theo Dantri
Cồn Cỏ - Hồi ức những ngày giữ đảo 50 năm trước
Có những ngày địch bắn phá hơn 30 lần hòng cướp đảo, biến nơi đây thành căn cứ quân sự làm bàn đạp mở rộng chiến tranh ra miền Bắc. Giữa bom đạn, thiếu thốn đủ bề, những người lính vẫn kiên trì giữ đảo - giữ một Tổ quốc thu nhỏ giữa trùng khơi.
Đại tá Nguyễn Văn Tuân, nguyên đảo phó đảo Cồn Cỏ.
82 tuổi đời, căn bệnh tim mạch khiến đại tá Nguyễn Văn Tuân (phường Hà Huy Tập, Tp Vinh, Nghệ An) không còn giữ được dáng vẻ tinh anh nhanh nhẹn như trước. Cuộc nói chuyện thỉnh thoảng phải nghỉ giữa chừng để ông ổn định sức khỏe bởi ông vừa trải qua một đợt điều trị dài ngày, mới trở về nhà được 2 hôm.
Nhắc tới đảo Cồn Cỏ, đôi mắt người cựu binh sáng lên. Một thời gian khó, hiểm nguy nhưng cũng là một chương đời rất đỗi hào hùng hiện về trong ký ức.
Cuộc chiến giữ đảo
Năm 1964, anh lính Nguyễn Văn Tuân được điều tới trung đoàn 270, thuộc Sư đoàn 341 - sư đoàn bảo vệ giới tuyến Vĩnh Linh. Thời điểm này, cuộc chiến tranh chống Mỹ cứu nước đang ở thời kỳ ác liệt. Bằng việc dựng lên "sự kiện Vinh Bắc bộ", Mỹ mở rộng chiến tranh phá hoại ra miền Bắc. Vĩnh Linh (Quảng Trị) trở thành giới tuyến quân sự tạm thời chia cắt hai miền đất nước. Giữa năm 1965, Nguyễn Văn Tuân được điều ra đảo Cồn Cỏ và là Đảng ủy viên, đảo phó đảo Cồn Cỏ.
"Nếu như nói Vĩnh Linh là tuyến đầu của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước thì đảo Cồn Cỏ là vị trí tiền tiêu. Đây là điểm đối đầu giữa lực lượng 2 miền Nam - Bắc. Đảo Cồn Cỏ có vị trí hết sức quan trọng về chính trị lẫn quân sự. Nếu để Cồn Cỏ rơi vào tay địch, chúng sẽ xây dựng căn cứ quân sự, cản trở giao thông tiếp tế từ Bắc vào Nam và là căn cứ quân sự, làm bàn đạp đánh phá ra miền Bắc. Bảo vệ đảo Cồn Cỏ, không để đảo rơi vào tay địch là nhiệm vụ hết sức cấp thiết và vô cùng quan trọng", đảo phó Nguyễn Văn Tuân phân tích về tầm quan trọng của mảnh đất rộng chưa đầy 4km2, cách bờ biển Vĩnh Linh gần 30km theo đường chim bay này.
Đại tá Tuân bên những trang nhật ký những ngày chiến đấu, giữ đảo Cồn Cỏ.
Bởi tầm quan trọng đó, Cồn Cỏ trở thành mục tiêu đánh phá ác liệt của đế quốc Mỹ. Cồn Cỏ nằm riêng biệt giữa biển, mọi thứ từ lương thực, vũ khí, khí tài và cả lực lượng đều phải chi viện từ đất liền ra. Trong khi đó, muốn "làm cỏ" cộng sản trên hòn đảo này, đế quốc Mỹ dùng nhiều tàu chiến, máy bay và cả biệt kích người nhái liên tục tấn công đảo. Có những ngày, địch tổ chức hơn 30 lượt bắn phá từ máy bay, tàu chiến vào hòn đảo này.
"Địch đánh suốt ngày bằng bom, bằng pháo. Đảo Cồn Cỏ có khi không còn một bóng cây, mặt đất như bị cày xới lên từng mét. Lính đảo phải đào công sự dày đặc khắp nơi để chiến đấu với quân thù. Mỗi trận địa đều được anh em đặt một cái tên như Hà Nội, Sông Hồng, Hà Nam, Hải Phòng... Với anh em chúng tôi, đảo như một Tổ quốc thu nhỏ mà nhiệm vụ giữ đảo - bảo vệ Tổ quốc là trọng trách mà Đảng và nhân dân giao phó, dù bất kỳ khó khăn, gian khổ, hiểm nguy nào chúng tôi cũng phải hoàn thành", đại tá Tuân nhớ lại.
Lật giở bản sao của cuốn nhật ký (bản chính đang được trưng bày ở Bảo tàng Quân khu 4 - PV), ông chỉ cho tôi xem những dòng chữ dày đặc viết vội vàng. Ở đó, từng ngày, từng phút của cuộc chiến đấu giữ đảo được người đảo phó ghi lại. Có những ngày, những cái gạch đầu dòng - là một đợt Mỹ đánh đảo cứ dài mãi ra, kín hết cả trang giấy. Nhưng những đợt tấn công của địch đều bị lính đảo đẩy lùi.
Lần chỉ huy 1 trận địa pháo hiệp đồng đánh tàu thủy địch được ông ghi vào nhật ký: "4h20 phút 5 tàu địch tập kích vào đảo. Bọn xảo quyệt. Mình đợi chúng nó suốt đêm. Nó cứ gầm gừ ngoài xa. Bây giờ chúng lại đang ở phía Đông Bắc đấm lưng mình. Chúng nhát như thỏ.... Đạn chiu chíu, vượt qua hỏa lực để thực hiện hiệp đồng. Đó kìa, chúng nó đang chạy tháo mạng.
Cuộc chiến giữ đảo được vị đảo phó ghi lại từng giờ, từng phút trong cuốn nhật ký của mình.
Bắn! Bắn. Sao, sao thế? 1 tiếng nổ choáng tai, tối sầm rát mặt mũi. 1 chiến sỹ bị thương nằm xuống bên mình... 13h. Lại đi tổ chức trận địa mới. 21h, 3 tàu địch bắn vào đảo nhưng lần này không lâu đâu, 5 phút thôi. Trận địa của ta đã mở, hướng vào tàu địch nã. Hay lắm. 1 phát, 2 phát... Cừ lắm. 8 phát. Và kìa, vệt sáng lóe lên ở cái hỏa tiễn thứ 4 khổng lồ ấy. A, chúng nó chuồn, chúng nó chạy. Bắn, bắn!
Nhưng lúc đó, 1 quả đạn 40 ly đánh trượt ống nhóm tới tay. Mảnh đạn sượt qua da cổ, mũ sắt rơi xuống. Không hề gì các đồng chí ạ. A lô, a lô K2, tàu địch bỏ chạy, anh em an toàn, kết quả xác minh sau".
Cũng bởi cuộc chiến đấu ở đảo Cồn Cỏ hết sức ác liệt nên đảo nhận được nhiều sự quan tâm, động viên của lãnh đạo Đảng và Quân ủy Trung ương. Bác Hồ còn dặn dò lính đảo trồng cây dong riềng lên nóc hầm và các trận địa, vừa có thể ngụy trang lại vừa có thể tăng gia, tự túc một phần lương thực tại chỗ.
"Thỉnh thoảng, Bác Hồ, Bác Duẩn lại gửi quà ra cho anh em. Những lúc yên bình hiếm hoi, anh em lên mũi đồi cao nhất ngóng về đất liền. Ở đó là quê hương, là cha mẹ, là vợ con yêu dấu. Nhưng ở đó cũng có niềm tin của Đảng, của Bác Hồ, của nhân dân đặt lên vai chúng tôi. Và lính đảo chúng tôi quyết giữ đảo tới cùng", đại tá Nguyễn Văn Tuân nắm chặt bàn tay của mình tự lúc nào.
Tiếp tế cho đảo tiền tiêu
Tháng 1/1966, Nguyễn Văn Tuân được điều về đất liền nhưng không phải để nghỉ ngơi là nhận nhiệm vụ hết sức quan trọng: chỉ huy tiếp tế cho đảo Cồn Cỏ. Địch đánh phá đảo, bao vây suốt ngày đêm. Lương thực, vũ khí, thuốc men tiếp tế cho đảo không đáp ứng được nhu cầu ngày càng ác liệt của chiến tranh. Để ngăn chặn nguồn tiếp tế từ trong đất liền ra, địch cho tàu lượn lờ trên biển, truy đuổi, bắn phá hoặc bắt tàu tiếp tế cùng các thành viên trên tàu.
Đã từng phải chịu những trận đói quay quắt trên đảo, tình trạng thiếu nước ngọt, thiếu rau xanh khiến người phù thủng, nổi mụn nhọt nên Nguyễn Văn Tuân hiểu hơn ai hết những gian khổ, khó khăn của người lính nơi vị trí tiền tiêu này. Địch tăng cường đánh phá trên biển lẫn trên đất liền. Kho hàng phải để cách xa bến 2-3km, phương tiện vận chuyển chỉ là những thuyền 2 buồm, 6 mái chèo, 1 người lái, tải trọng từ 6-10 tấn bởi vậy việc tiếp tế cho đảo gặp rất nhiều khó khăn.
Đại tá Tuân kể về những khó khăn, hiểm nguy khi tiếp tế vũ khí, lương thực cho đảo Cồn Cỏ.
Trước đó, nhiệm vụ này được giao cho lực lượng Hải quân nhưng căn cứ vào tình hình thực tế, Quân ủy Trung ương quyết định Đại đội 22 vận tải thuyền và quân dân Vĩnh Linh sẽ dảm trách nhiệm vụ nặng nề này. Là chỉ huy đại đội vận tải 22, Nguyễn Văn Tuân bắt tay vào một cuộc chiến mới. Với sự chi viện về cán bộ kỹ thuật, động cơ máy, lực lượng vận tải biển nghiên cứu cải tiến, đóng mới tàu thuyền tải trọng lớn phục vụ vận chuyển. Lần đầu tiên, ngư dân Vĩnh Linh đã đóng được tàu máy. Với sự "trợ sức" của động cơ đẩy, tàu chở được nhiều hơn, đi nhanh hơn.
Trong thời kỳ kháng chiến, bộ đội đảo Cồn Cỏ đã bắn rơi 48 máy bay, bắn chìm 17 tàu chiến và tàu biệt kích của Mỹ - ngụy. Với những chiến công vang dội đó, đảo Cồn Cỏ đã vinh dự được Đảng và Nhà nước 2 lần tuyên dương danh hiệu Anh hùng LLVT nhân dân; được Bác Hồ 3 lần gửi thư khen ngợi và tặng ảnh chân dung của Người.
"Mỗi năm, việc vận chuyển hàng tiếp tế cho đảo chỉ thực hiện được từ tháng 2 âm lịch đến tháng 4-5. Chỉ trong vòng 3 tháng, phải tiếp tế đủ lương thực, vũ khí và cả con người cho đảo trong vòng 1 năm. Từ bến ra đảo chỉ có 30km theo đường chim bay nhưng để tránh địch, mỗi chuyến tàu phải đi suốt cả đêm. Mỗi chuyến đi là cả một cuộc chiến thực sự nhưng đảo gọi, đất liền phải khắc phục tất cả những khó khăn, hiểm nguy để tiếp tế", đại tá Nguyễn Văn Tuân nói.
Mỗi chuyến đi là một cuộc chiến thực sự khi trước mặt là kẻ thù với tàu lớn, vũ khí hiện đại còn phía ta chỉ là những con thuyền thô sơ, ì ạch đè sóng. Đã có những chuyến thuyền 12 chiếc nhưng chỉ có 4 chiếc thoát khỏi vòng vây dày đặc của địch. Mất thuyền, mất hàng, mất người nhưng đau đớn hơn là hàng không kịp tiếp tế ra Cồn Cỏ phục vụ anh em chiến đấu. Bảo vệ hàng là nhiệm vụ hết sức quan trọng, bởi vậy, ngoài việc chất hàng lên tàu, việc bố trí những vũ khí gì để vừa có thể chiến đấu với địch lại không làm ảnh hưởng tới tải trọng cũng như sự an toàn của hàng khiến Nguyễn Văn Tuân cùng đồng đội trăn trở suốt mấy tháng trời.
Và phút giây nhớ về những đồng đội, đồng chí ngã xuống khi thực hiện nhiệm vụ bảo vệ đảo Cồn Cỏ.
Sau khi nghiên cứu kỹ cách xây dựng "công sự" trên thuyền, những chiếc thuyền tiếp tế được trang bị khẩu BKZ, cối 82 ly. Có thuyền lớn, có vũ khí, có kinh nghiệm đi biển của ngư dân và có lòng dũng cảm, kiên cường của những người lính vận tải biển, những chuyến hàng tiếp tế đã ra với đảo nhanh hơn, nhiều hơn để phục vụ duy nhất: giữ đảo - giữ vị trí tiền tiêu của cuộc chiến đấu chống Mỹ giữa giới tuyến phân chi 2 miền Nam - Bắc.
Năm 1967, mặt trận đường 9 được mở ra. Địch phải phân tán lực lượng ra nhiều mặt trận khác nhau, tình hình ở Cồn Cỏ "giãn" ra, bớt khốc liệt. Do yêu cầu của tình hình mới, Nguyễn Văn Tuân được phân công trực tiếp vào các chiến trường.
"Là người lính, tôi tự hào đã góp mặt trong tất cả các chiến dịch lớn, từ Điện Biên, đến Mậu Thân, chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử. Sắp tới, kỷ niệm 55 năm ngày truyền thống anh hùng LLVT đảo Cồn Cỏ (8/8/1959), cũng muốn vào thăm trận địa xưa, thăm anh em, đồng đội đã ngã xuống ở đây nhưng chỉ sợ sức khỏe không cho phép", giọng người lính già chùng xuống. Người lính đã kinh qua những khốc liệt của chiến tranh vẫn mềm yếu khi nghĩ về những đồng đội, đồng chí của mình đã ngã xuống trên chặng đường vạn lý trường chinh của dân tộc.
Hoàng Lam
Theo Dantri
Chuyện vị "kiến trúc sư" thiết kế làng hầm địa đạo Vịnh Mốc Để làm nên làng hầm Vịnh Mốc, che chở an toàn cho hàng vạn người dân trong những năm chiến tranh ác liệt là công sức của cả tập thể. Nhưng, người đã nảy ra sáng kiến đào địa đạo hết sức hiệu quả như thế lại là một người chưa học hết tiểu học... Kiến tạo làng hầm xuyên lòng đất chỉ...